Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2016

Thiên Long Bát Bộ 8 : Hổ Khiếu Long Ngâm

Sơn lâm uy chấn cõi ngoài,
Cung đình vương giả tranh tài hơn thua.
Hổ gầm tiếng vọng canh khuya,
Rồng thiêng giương vuốt dễ đùa được sao?
-
Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái quay về noãn các trong phủ Trấn Nam Vương báo cáo, vợ chồng Chung Vạn Cừu và Tần Hồng Miên đi đã xa. Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng lo cho đứa con yêu liền hỏi:

- Tâu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở đâu hoàng thượng đã biết chưa?

Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đáp:

- Cái tên Vạn Kiếp Cốc hôm nay ta nghe đến mới là lần đầu, nhưng chắc cũng không xa thành Đại Lý bao nhiêu.

Đao Bạch Phượng vội vàng nói:

- Nghe như Chung Vạn Cừu nói thì địa phương này rất là kín đáo, e rằng tìm được không phải dễ. Dự nhi nếu lọt vào tay kẻ địch lâu ngày ...

Bảo Định Đế mỉm cười nói:

- Dự nhi được nuông chiều đã quen không hiểu cái hiểm ác của người đời, nếu trải qua một ít gian nan, có dịp giũa mài, biết đâu lại chẳng có ích cho nó.

Đao Bạch Phượng trong bụng nóng như lửa đốt nhưng không dám nhiều lời. Bảo Định Đế quay sang Đoàn Chính Thuần:

- Thuần đệ, mau bày rượu thịt ra đây khao thưởng mọi người một phen khổ sở.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Vâng!

Ông quay ra dặn dò, chỉ giây lát đã mang lên đủ mọi loại sơn trân hải vị. Bảo Định Đế ra lệnh cho tất cả mọi người cùng ngồi vào ăn uống chung.

Đại Lý là một nước nhỏ ở tận cùng phương nam, trong nước có rất nhiều sắc dân, người Hán chẳng có mấy, Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng là người Bãi Di, dân chúng chưa ảnh hưởng văn hóa Trung Nguyên bao nhiêu, triều nghi lễ pháp so với Đại Tống thì giản dị hơn nhiều. Bảo Định Đế tính tình từ hòa, trừ khi ở trong triều đình ra ngoài thường không thích đa lễ thành ra vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái đều ngồi ở hạ thủ để bồi tiếp.

Trong khi ăn uống, Bảo Định Đế tuyệt nhiên không đề cập gì đến mọi chuyện, Đao Bạch Phượng lông mày nhíu lại, ăn chẳng thấy ngon. Đến khi trời sáng, thị vệ ngoài cửa vào bẩm:

- Ba Tư Không tham kiến hoàng thượng.

Đoàn Chính Minh nói:

- Cho vào!

Rèm cửa vén lên, một người da đen nhẻm, vừa thấp bé vừa gầy guộc bước vào, khom lưng hành lễ với Bảo Định Đế, nói:

- Khải tấu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở bên kia Thiện Nhân Độ, qua chiếc cầu treo là tới, cửa vào là một cái hốc ở một cây cổ thụ.

Đao Bạch Phượng vỗ tay reo lên:

- Ba Tư Không ra tay thì lẽ nào lại tìm không ra sào huyệt của địch? Nếu sớm biết thế ta đã không phải lo cả đêm.

Người da đen kia hơi cúi mình nói:

- Vương phi quá khen, Ba Thiên Thạch này không dám nhận.

Ba Thiên Thạch tuy hình dáng khó coi nhưng là một nhân vật cực kỳ tinh minh mẫn cán, lập được nhiều công lao hiện đang làm quan Tư Không ở Đại Lý. Tư Đồ, Tư Mã, Tư Không là Tam Công rất tôn vinh trong triều đình. Ba Thiên Thạch võ công trác tuyệt, có sở trường về khinh công, được Bảo Định Đế sai đi dò thám nơi chốn của kẻ địch, y bí mật theo dõi Chung Vạn Cừu, quả nhiên tìm ra được Vạn Kiếp Cốc.

Bảo Định Đế mỉm cười:

- Thiên Thạch, ngươi ngồi xuống ăn cho no rồi mình cùng lên đường.

Ba Thiên Thạch biết hoàng thượng không muốn người khác quỳ lạy, đối với bầy tôi chẳng khác gì anh em bạn bè, nếu người dưới quá ư cung kính, ông lại không vui, nên lập tức vâng một tiếng, bưng bát lên ăn ngay. Y không uống một giọt rượu nhưng ăn rất khỏe, chỉ chốc lát đã ăn hết tám bát cơm đầy. Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái biết y đã lâu nên không lấy gì đáng ngạc nhiên.

Ba Thiên Thạch ăn xong, đứng dậy, giơ tay áo chùi mồm, nói:

- Thần Ba Thiên Thạch dẫn đường.

Nói xong y liền đi trước. Bảo Định Đế, vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái một dọc đi theo. Ra khỏi phủ Trấn Nam Vương thấy Chử Cổ Phó Chu Tứ Đại Vệ Hộ đã dắt ngựa đứng chờ sẵn cùng mấy chục người tùy tùng mang binh khí cho Bảo Định Đế đứng phía sau.

Họ Đoàn là thế gia võ lâm Trung Nguyên chiếm được Đại Lý, mấy trăm năm nay vẫn không quên phong cách của ông cha. Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần tuy phú quí đến cực điểm nhưng vẫn thường ăn mặc như dân dã ra ngoài du ngoạn, gặp người trong võ lâm đến thăm viếng báo thù đều theo qui củ giang hồ mà tiếp đãi chứ không dùng nghi vệ hoàng đế. Cho nên lần này Bảo Định Đế ngự giá thân chinh, những người đi theo đều đã quen không ai lạ lùng gì. Từ Bảo Định Đế đổ xuống, ai nấy thay đồ thường phục, nếu không quen biết thì chỉ tưởng là một nhà phú hộ nào đó ra ngoài du ngoạn mà thôi.

Đao Bạch Phượng thấy trong đám tùy tòng của Ba Thiên Thạch có đến hai chục người mang theo búa lớn cưa dài, cười hỏi:

- Ba Tư Không, mình mang theo thợ mộc để cất nhà hay sao?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Đễ cưa cây phá nhà.

Những con ngựa cưỡi toàn là tuấn mã, chạy như bay, chưa đến giờ ngọ đã đến khu rừng bên ngoài Vạn Kiếp Cốc. Ba Thiên Thạch chỉ huy bộ thuộc chặt hết những cây to chắn đường. Đến cốc khẩu, Bảo Định Đế chỉ vào tấm biển sơn "Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha" trên cây, cười nói:

- Chủ nhân của Vạn Kiếp Cốc này thù mình quá đỗi.

Đoàn Chính Thuần biết Chung Vạn Cừu sợ mình vào Vạn Kiếp Cốc thăm Cam Bảo Bảo, liếc mắt nhìn vợ, thấy bà ta cười khẩy.

Bốn người liền vác đại phủ tiến tới, chỉ chốc lát đã chặt ngã cái cây chu vi mấy người ôm kia. Ba Thiên Thạch dặn mọi người dắt ngựa đứng chờ ngoài cốc khẩu. Chử, Cổ, Phó, Chu Tứ Đại Vệ Hộ liền đi trước, kế đó là Ba Thiên Thạch và Cao Thăng Thái, sau đó là vợ chồng Trấn Nam Vương, Bảo Định Đế đi sau cùng. Vào trong Vạn Kiếp Cốc rồi, thấy bốn bề vắng lặng không một ai ra nghinh đón. Ba Thiên Thạch theo qui củ giang hồ, tay cầm danh thiếp hai anh em Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, hăng hái tiến đến trước căn nhà, lớn tiếng nói:

- Anh em họ Đoàn nước Đại Lý đến xin được gặp Chung cốc chủ.

Nói chưa dứt câu, trong tùm cây phía trái đột nhiên nhảy xổ ra một người cao gầy, nhanh nhẹn lạ thường giơ tay chộp danh thiếp trên tay Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch lách qua ba bước, quát lên:

- Tôn giá là ai?

Người đó chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Y chộp không trúng nhưng không bỏ cuộc lại xông về hướng Ba Thiên Thạch lần nữa. Ba Thiên Thạch thấy y lanh lẹ dị thường nên định bụng sẽ so tài khinh công lập tức chạy tới ba bước, Vân Trung Hạc cũng đuổi theo ba bước. Ba Thiên Thạch liền co giò chạy, Vân Trung Hạc cũng đuổi theo sau.

Một người cao, một người thấp chỉ chốc lát đã chạy quanh nhà ba vòng. Bước chân của Vân Trung Hạc rất xa, còn Ba Thiên Thạch lúc nhảy lúc chạy, nhún lên hụp xuống so với đối phương còn nhanh hơn nhiều, thành thử hai người lúc nào cũng cách nhau mấy thước. Vân Trung Hạc dĩ nhiên đuổi không kịp nhưng Ba Thiên Thạch thì chạy cũng không thoát. Hai người trước nay ai cũng cho rằng mình khinh công thiên hạ không ai bằng, bây giờ gặp được kình địch, trong bụng đều kinh hãi thầm. Hai người càng chạy càng nhanh, gió thốc vào quần áo nghe phần phật, tuy chỉ có hai người chạy đua nhưng ở bên ngoài nhìn vào tưởng chừng năm sáu người cùng đuổi theo nhau.

Càng về sau khoảng cách hai người càng xa, biến thành chạy vòng quanh nhà, không biết là Vân Trung Hạc đuổi theo Ba Thiên Thạch hay là Ba Thiên Thạch đuổi theo Vân Trung Hạc. Nếu Ba Thiên Thạch đuổi đến sau lưng Vân Trung Hạc thì cuộc tỉ thí khinh công này y đã thắng. Thế nhưng Vân Trung Hạc cũng hết sức chạy cho nhanh thành ra Ba Thiên Thạch lại xa y đến mấy trượng.

Chỉ nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở toang, Chung Vạn Cừu từ trong nhà bước ra. Ba Thiên Thạch vẫn không dừng chân, ám vận nội kình, tay phải liệng một cái, tờ danh thiếp tà tà bay về phía Chung Vạn Cừu.

Chung Vạn Cừu đưa tay đón lấy, giận dữ nói:

- Họ Đoàn kia, nếu như ngươi theo qui củ giang hồ đến bái sơn, sao lại hủy mất cửa vào sơn cốc của ta?

Chử Vạn Lý quát lớn:

- Hoàng thượng là bậc chí tôn, không lẽ chui vào cái hang chuột của nhà ngươi sao?

Đao Bạch Phượng khắc khoải lo cho con, nhịn không nổi lên tiếng hỏi:

- Con ta đâu? Các ngươi dấu nó ở chỗ nào?

Từ trong nhà nhảy ra một người đàn bà, giọng rít lên:

- Ngươi đến chậm một bước. Tiểu tử họ Đoàn bọn ta đã băm vằm mổ xẻ vứt cho chó ăn rồi.

Mụ ta hai tay cầm hai thanh đao, lưỡi đao mỏng như lá liễu, lấp lánh màu xanh, chính là Tu La Đao tẩm thuốc độc dính máu là chết. Hai người đàn bà này mười tám năm trước vì ghen mà thành ghét thù nhau cực sâu xa. Đao Bạch Phượng cũng biết lời của Tần Hồng Miên không phải thực nhưng nghe mụ ta rủa đứa con yêu của mình như thế, chuyện cũ chưa qua, chuyện mới đã tới cơn giận bùng lên, lạnh lùng nói:

- Ta hỏi là hỏi Chung cốc chủ, ai thèm nói chuyện với thứ đàn bà hư thân mất nết như ngươi cho bẩn mồm.

Chỉ nghe hai tiếng leng keng, song đao của Tần Hồng Miên nhắm ngay Đao Bạch Phượng cùng chém ra nhanh như gió cuốn. Đòn Thập Tự Khảm là tuyệt kỹ thành danh của bà ta, không biết bao nhiêu giang hồ hảo hán bỏ mạng vì độc chiêu Tu La Đao này, Đao Bạch Phượng vung phất trần lên gạt, thân hình nhích ra cán phất trần điểm luôn vào sau lưng kẻ địch.

Đoàn Chính Thuần thật xấu hổ, một người là vợ yêu, một người là tình cũ, với Đao Bạch Phượng thật là sâu đậm, còn đối với Tần Hồng Miên thì cũng khó quên, nay thấy hai người vừa ra tay đã dùng ngay sát thủ, quyết sống mái, dù ai bị thương thì ông cũng một đời mang hận, bèn quát lên:

- Khoan hãy động thủ.

Ông nghiêng người tiến tới, rút phắt trường kiếm toan gạt binh khí của hai người ra.

Chung Vạn Cừu vừa nhìn thấy Đoàn Chính Thuần thì đã điên tiết, loảng xoảng một tiếng, rút ngay Đại Hoàn Đao vung lên chém xuống đầu tình địch. Chử Vạn Lý nói:

- Không cần vương gia phải ra tay, để tiểu nhân thanh toán y được rồi.

Chiếc cần sắt của y vung ra, quật xuống đầu Chung Vạn Cừu. Chiếc cần của y vốn đã bị Diệp Nhị Nương bẻ gãy rồi, đây là chiếc mới y vừa đúc. Chung Vạn Cừu chửi:

- Ta biết ngay họ Đoàn nhà chúng bay chỉ giỏi tài lấy thịt đè người.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Vạn Lý lui ra, ta đang muốn xem võ công Chung cốc chủ đến cỡ nào.

Ông giơ kiếm lên, gạt chiếc cần sắt của Chử Vạn Lý ra, thuận thế phất xuống sống thanh Đại Hoàn Đao rồi hớt lên mấy ngón tay Chung Vạn Cừu. Ba thức gạt ra, phất xuống rồi hớt lên liền lạc với nhau không cần khoảng cách nào để biến chiêu khiến Chung Vạn Cừu kinh hãi nghĩ thầm: "Tên giặc họ Đoàn này kiếm pháp ghê gớm thật". Y vội vàng nén cơn giận, vung ngang thanh đao bảo vệ trước ngực, không dám coi thường cường địch chút nào.

Đoàn Chính Thuần giơ kiếm lên đâm tới, Chung Vạn Cừu thấy thế kiếm lợi hại, không dám đỡ vội vàng nhảy lùi lại ba bước. Đoàn Chính Thuần chỉ mong y không dám đấu dây dưa, lập tức vọt qua chỗ Đao Bạch Phượng và Tần Hồng Miên, thấy đao pháp Tần Hồng Miên xem ra núng thế bị Đao Bạch Phượng từng bước ép phải lùi. Bỗng nghe soẹt soẹt soẹt ba tiếng, Tần Hồng Miên đã bắn ra ba mũi tên độc, những mũi tên đó cùng một hình dạng với độc tiễn của Mộc Uyển Thanh nhưng thủ pháp cao minh hơn nhiều, chia ra trái phải giữa khiến đối phương khó mà tránh né.

Đao Bạch Phượng tung mình nhảy lên cao, ba mũi tên bay vọt dưới chân, ngờ đâu khi thân hình bà ta còn đang lơ lửng trên không, lại có ba mũi tên khác bắn tới. Mũi tên thứ nhất bắn vào dưới bụng, mũi tên thứ hai bắn vào chân còn mũi tên thứ ba bắn vào dưới bàn chân. Đao Bạch Phượng không còn cách nào nhảy lên được nữa, vội vung phất trần ra đỡ, cuốn được mũi tên thứ nhất, thân hình liền rơi xuống, xem ra mũi tên thứ hai và thứ ba bắn vào bụng và ngực không sao có thể tránh né hay đỡ gạt. Đột nhiên một lằn ánh sáng lấp lánh, một thanh trường kiếm từ dưới gạt lên, chặt hai mũi tên đó thành bốn mảnh chính là Đoàn Chính Thuần nhảy tới chặn ngay trước mặt Đao Bạch Phượng,. Ví thử ông ta ra chiêu kém chính xác không chém đứt được hai mũi tên thì những mũi tên đó đã ghim vào người ông ta rồi.

Biến cố đó khiền cả Đao Bạch Phượng lẫn Tần Hồng Miên đều mặt xanh như tàu lá, tim đập thình thình. Đao Bạch Phượng kêu lên:

- Tôi không cần ông phải giúp tôi.

Bà lạng người vọt ra trước mặt trượng phu, múa phất trần đánh với Tần Hồng Miên lần nữa. Bà hận Tần Hồng Miên ra tay độc ác, chiêu số phất trần thật nhanh, quét xéo đâm thẳng, khiến đối phương không hở tay để có dịp bắn tên độc. Còn Tần Hồng Miên mới rồi bắn tên suýt nữa thì trúng phải Đoàn Chính Thuần, thấy ông ta liều mạng ra tay cứu vợ, thiên vị quá đỗi, vừa hoảng hốt lại vừa đau lòng thành thử không chống đỡ nổi phất trần của đối phương.

Đao Bạch Phượng sử dụng chiêu Phượng Thê Ư Ngô đánh thẳng xuống đầu kẻ địch, Tần Hồng Miên vội tránh qua bên phải ngờ đâu tả chưởng của Đao Bạch Phượng cùng đánh ra, xem chừng sẽ trúng ngực Tần Hồng Miên thể nào cũng phải hộc máu. Bàn tay còn cách ngực Tần Hồng Miên chừng nửa thước ngờ đâu có một bàn tay đàn ông gạt ra ngoài, chính là Đoàn Chính Thuần cứu người tình cũ, nói:

- Phượng Hoàng Nhi, chớ có như thế.

Tần Hồng Miên ngỡ ngàng, giận dữ nói:

- Cái gì mà phượng với chả công, gọi nhau thân mật nhỉ?

Đao bên trái của bà ta liền chém xuống vai Đoàn Chính Thuần. Đao Bạch Phượng cũng đang bực chồng ra tay cứu tình nhân, gạt tay mình ra nên cũng múa phất trần đánh luôn vào mặt ông ta.

Hai người đàn bà cùng tấn công Đoàn Chính Thuần nhưng lại cũng cùng thấy đối phương ra tay nên cùng kêu lên:

- Ối chao!

Ai cũng muốn ra tay bảo vệ cho lang quân. Phất trần của Đao Bạch Phượng chuyển hướng quay sang gạt thanh Tu La Đao, còn Tần Hồng Miên thì phóng một ngọn cước vào người Đao Bạch Phượng cốt để bà ta rút phất trần về.

Đoàn Chính Thuần nghiêng người né tránh, nghe bình một tiếng, cước của Tần Hồng Miên đã đá trúng mông ông ta. Đao Bạch Phượng hậm hực quát lên:

- Sao ngươi dám đá chồng ta?

Tần Hồng Miên nói:

- Đoàn lang, thiếp không cố ý, chàng ... chàng có đau không?

Đoàn Chính Thuần giả vờ nhăn nhó, kêu lên:

- Đau quá, đau quá, đau đến chết mất.

Nói xong giả vờ ngồi thụp xuống. Chung Vạn Cừu thấy cơ hội, giơ đao lên chém xuống đầu Đoàn Chính Thuần, Đao Bạch Phượng kêu lên:

- Ngừng tay!

Tần Hồng Miên cũng kêu lên:

- Đánh hắn.

Cả Tu La Đao lẫn phất trần cùng quay sang tấn công Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu đành phải thu đao hộ thân, kêu lên:

- Tên giặc thối tha họ Đoàn kia, cái đồ mặt thớt phải để cho đàn bà ra tay cứu, còn gì là hảo hán?

Đoàn Chính Thuần cười ha hả, từ đất nhảy lên, soẹt soẹt soẹt ba chiêu kiếm ép cho Chung Vạn Cừu phải lùi lại. Tần Hồng Miên ngạc nhiên giận dữ nói:

- Hóa ra ông không bị thương, chỉ giả vờ.

Đao Bạch Phượng cũng tiếp lời:

- Cái đồ này chỉ chuyên đi lừa người ta, còn ai mà chẳng biết.

Tần Hồng Miên quát lớn:

- Xem đao đây.

Đao Bạch Phượng cũng kêu:

- Đánh cho lão một trận.

Thế là hai người đàn bà liền liên thủ xông vào tấn công Đoàn Chính Thuần. Bảo Định Đế thấy em trai dây dưa mãi với hai người đàn bà, lắc đầu cười thầm, quay sang nói với Chử Vạn Lý:

- Các ngươi đi tra xét xem sao.

Chử Vạn Lý đáp:

- Tuân lệnh.

Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người liền chạy đến cửa vào nhà, Cổ Đốc Thành chân vừa đạp vào ngạch cửa đột nhiên cảm thấy gió lạnh trên đầu ập xuống. Chân trái y mới để hờ lên thềm, chân phải vội búng một cái lập tức nhảy vọt trở ra, thấy một thanh đao vừa rộng vừa mỏng chém vụt xuống, chỉ cách mặt chừng vài tấc, nếu như chậm một chút dù đầu không bị xẻ làm đôi, thì ít ra cũng vẹt mất mũi. Cổ Đốc Thành lưng toát mồ hôi lạnh, nhìn lại người vừa ra tay ám toán mình là một thiếu phụ trung niên, mặt mũi xinh xắn, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Thanh bạc đao của bà ta hình vuông, mỏng dính, bốn bề đều sắc, tay cầm chỉ là một cái cán ngắn, vừa múa lên đã thành một vòng tròn sáng choang.

Cổ Đốc Thành sau cơn hoảng vía định thần lại, quát lên một tiếng vung búa lên chém xuống thanh bạc đao, Diệp Nhị Nương vội vàng múa tít không để cho chạm vào món binh khí nặng nề ấy. Cổ Đốc Thành sử dụng bảy mươi hai đường Loạn Phi Phong phủ pháp, hai búa hai nơi chém trên chém dưới.

Diệp Nhị Nương giở trò pháp thuật miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú. Chu Đan Thần thấy mụ ta đánh như trò chơi nhưng đao pháp thật là ngụy bí khó mà lường được sợ rằng để lâu, Cổ Đốc Thành sẽ không chống nổi bèn múa phán quan song bút xông vào tiếp tay.

Lúc đó Ba Thiên Thạch và Vân Trung Hạc hai người vẫn đang đuổi nhau, hai người khinh công hơn kém ai cũng biết rằng không phải chỉ một lúc mà biết được. Ba Thiên Thạch chạy được trên trăm vòng rồi, thấy Vân Trung Hạc công phu hạ bàn nhẹ nhàng có thừa nhưng không đủ vững chãi, không được như mình mỗi lần nhún chân đều còn để lại dư lực phòng hờ chỉ cần đứng lại tấn công y ba chưởng là y sẽ chịu không nổi. Thế nhưng Ba Thiên Thạch nhất định muốn cùng y tỉ thí khinh công xem ai hơn, không muốn dùng quyền cước mà thủ thắng nên cứ tiếp tục chạy vèo vèo.

Bỗng nghe tiếng người ồm ồm chửi:

- Tiên sư mẹ chúng mày làm bố mất ngủ, đứa chó nào tới đây phá rối thế?

Nam Hải Ngạc Thần tay cầm ngạc chủy tiễn ở đâu huỳnh huỵch chạy ra. Phó Tư Qui quát lại:

- Thì bố của sư phụ ngươi tới chứ còn ai!

Nam Hải Ngạc Thần quát lên:

- Cái gì mà bố của sư phụ ta?

Phó Tư Qui chỉ vào Đoàn Chính Thuần nói:

- Trấn Nam Vương là cha của Đoàn công tử, Đoàn công tử là sư phụ của ngươi, bộ tính đánh nước bài bây hả?

Nam Hải Ngạc Thần tuy chuyện ác đã nhiều nhưng cũng còn được một điều tốt là đã nói thì làm nên vừa nghe thế, giân đến mặt vàng ệch nhưng không dám công nhiên chối bèn quát lên:

- Ta bái sư là chuyện của ta liên quan đếch gì đến thằng con rùa đen kia?

Phó Tư Qui cười:

- Ta có phải con ngươi đâu mà bảo ta là thằng con rùa đen?

Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, nghĩ một lúc mới biết là y nói bóng gió chửi mình là đồ ô qui. Nghĩ ra được rồi, y gầm lên, soẹt soẹt soẹt chém luôn ba nhát ngạc chủy tiễn. Gã tuy đầu óc chậm lụt nhưng võ công không đến nỗi tệ, những răng nhọn trên thanh ngạc chủy tiễn chẳng khác gì những móc trên lang nha bổng. Phó Tư Qui giơ thanh thục đồng côn đánh luôn ba chiêu, thấy chối cả tay, Chử Vạn Lý vội vàng vung cần lên, sợi dây tơ liền vụt ra chẳng khác gì nhuyễn tiên quất vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, Nam Hải Ngạc Thần đưa ngạc chủy tiễn gạt ra được.

Bảo Định Đế nhìn cuộc thế thấy bên mình không ai có gì nguy hiểm nói với Cao Thăng Thái:

- Ngươi đứng đây lược trận.

Cao Thăng Thái đáp:

- Vâng!

Y chắp tay sau lưng đứng một bên coi sóc. Bảo Định Đế đi vào trong nhà, gọi:

- Dự nhi, cháu có ở đây không?

Ông không nghe tiếng đáp lại, đẩy cửa vào sương phòng bên trái, lại gọi nữa:

- Dự nhi! Dự nhi!

Chỉ thấy một cô gái chừng mười lăm, mười sáu từ sau cánh cửa bước ra, mặt ngơ ngác, hỏi lại:

- Ông ... ông là ai?

Bảo Định Đế đáp:

- Đoàn công tử ở đâu?

Thiếu nữ đáp:

- Ông kiếm Đoàn công tử làm chi?

Bảo Định Đế đáp:

- Ta muốn cứu y ra.

Cô gái lắc đầu:

- Ông không cứu nổi đâu. Đoàn công tử bị người ta lấy đá lớn nhốt trong thạch thất, bên ngoài lại có người canh.

Bảo Định Đế nói:

- Cô đưa ta tới, ta sẽ đánh ngã người canh gác, đẩy đá cứu y ra ngoài.

Thiếu nữ lại lắc đầu:

- Không được. Nếu tôi đưa ông tới, cha tôi giết tôi mất.

Bảo Định Đế hỏi:

- Thế cha cô là ai?

Cô gái đáp:

- Tôi họ Chung, cha tôi là chủ nhân của sơn cốc này.

Cô gái đó chính là Chung Linh mới trốn được từ núi Vô Lượng trở về đây. Bảo Định Đế gật gù, nghĩ thầm đối với một cô gái nhỏ tuổi như thế này, dù là dùng lời dụ dỗ hay dùng võ lực uy hiếp đều không khỏi thất giảm thân phận, nếu như Đoàn Dự có ở trong sơn cốc này, sớm muộn gì mình cũng tìm ra nên đi ra khỏi căn nhà để tìm người dẫn đường.

*

* *

Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh ở trong thạch thất nghe thấy người áo xanh ở bên ngoài tự xưng là thiên hạ đệ nhất ác nhân Ác Quán Mãn Doanh thì hết sức kinh hoàng, hai người nép lại bên nhau. Đoàn Dự nói nhỏ:

- Thì ra mình rơi vào tay kẻ ác nhất thiên hạ, thật hết nước nói.

Mộc Uyển Thanh ứ ự một tiếng dụi đầu vào lòng chàng. Đoàn Dự giơ tay vuốt ve tóc nàng, an ủi:

- Đừng sợ.

Áo hai người đẫm mồ hôi chẳng khác gì vừa ở dưới nước trồi lên còn toàn thân thì nóng như lửa, hơi bốc lên phà vào mũi lại càng thêm kích thích. Một người thì là trai mới lớn huyết khí phương cương, một người thì gái đương tơ ái tình nồng cháy, dẫu không uống phải xuân dược cũng chịu không nổi, huống chi Âm Dương Hòa Hợp Tán bá đạo vô cùng, trai chính trực cũng thành kẻ trăng hoa, gái đoan trang cũng thành đứa lăng loàn, tâm thần một khi mờ ám rồi thì thánh hiền cũng ra loài cầm thú.

Giờ đây chỉ còn trông chờ Đoàn Dự một điểm thiên lương, chăm chăm không quên cái thanh danh của họ Đoàn mà miễn cưỡng khắc chế. Người áo xanh cực kỳ đắc ý, cất tiếng cười quái đản nói:

- Hai anh em chúng bay mau làm cho xong việc đi, sinh con đẻ cái sớm một ngày thì ra khỏi lao lung sớm một ngày. Ta đi đây!

Nói xong y vượt qua bức tường cây đi mất. Đoàn Dự kêu lớn:

- Nhạc lão tam, Nhạc lão nhị! Sư phụ ngươi mắc nạn, mau đến cứu ta ra.

Chàng gọi đến khản cổ nhưng nào thấy ai trả lời? Đoàn Dự nghĩ thầm: "Trong lúc nguy cấp này thôi đành bái y làm thầy, biết làm sao? Chọn lầm thầy bất quá chỉ là chuyện một mình ta chịu khỏi phải liên lụy đến bá phụ và gia gia". Nghĩ như thế chàng lại gào lên:

- Nam Hải Ngạc Thần, ta cam tâm bái ngươi làm thầy, tình nguyện làm kẻ truyền nhân của phái Nam Hải, ngươi mau đến cứu đồ đệ đi thôi. Nếu không ta chết đi thì ngươi không có đệ tử nữa đó.

Chàng kêu réo om sòm một hồi lâu vẫn không nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần đáp lại, chợt nghĩ ra: "Chao ôi hỏng rồi! Nam Hải Ngạc Thần sợ nhất là lão đại Ác Quán Mãn Doanh, dù y có nghe ta gọi chăng nữa cũng chẳng dám tới cứu". Chàng càng thấy trong lòng bối rối.

Mộc Uyển Thanh đột nhiên nói:

- Đoàn lang, chàng với thiếp thành hôn rồi, đứa con đầu của chúng mình, chàng thích con trai hay con gái?

Đoàn Dự mơ mơ màng màng đáp lại:

- Con trai!

Đột nhiên ở bên ngoài thạch thất có tiếng một thiếu nữ vọng vào:

- Đoàn công tử, công tử là anh của cô ta, không thể nào lấy nhau được.

Đoàn Dự ngạc nhiên, hỏi lại:

- Cô ... cô có phải Chung cô nương đó không?

Cô gái đó chính là Chung Linh, nàng nói:

- Chính em đây, em nghe lén người áo xanh nói nên đang tìm cách cứu anh và Mộc tỉ tỉ ra.

Đoàn Dự mừng lắm nói:

- Thế thì hay quá, cô mau mau đi kiếm thuốc giải độc dược cho ta đi.

Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:

- Con tiểu quỉ Chung Linh kia, mau mau cút đi, ai cần ngươi cứu?

Chung Linh đáp:

- Để em tìm cách đẩy tảng đá cứu hai người ra trước đã.

Đoàn Dự vội nói:

- Chớ, chớ, cô mau mau đi ăn trộm thuốc giải, ta ... ta chịu không nổi nữa rồi, mau ... mau không thì chết mất.

Chung Linh kinh ngạc hỏi lại:

- Anh chịu không nổi cái gì? Đau bụng hả?

Đoàn Dự đáp:

- Không phải đau bụng.

Chung Linh lại hỏi:

- Hay là nhức đầu?

Đoàn Dự đáp:

- Cũng không phải nhức đầu.

C hỏi thêm:

- Thế nơi nào trên người khó chịu?

Đoàn Dự đang cơn tình dục nổi lên, làm sao nói cho một cô gái nhỏ hiểu được? Chàng đành nói:

- Ta khắp người chỗ nào cũng khó chịu, cô cứ đi trộm thuốc giải là được.

Chung Linh nhíu mày nói:

- Anh không nói bệnh trạng làm sao em biết đường đâu mà mò để kiếm thuốc giải. Cha em có nhiều loại thuốc giải lắm nhưng phải biết anh bị đau bụng, nhức đầu hay đau tim thì mới lấy được.

Đoàn Dự thở dài:

- Ta không đau gì cả, chỉ có ... chỉ có uống phải thứ thuốc độc tên là Âm Dương Hòa Hợp Tán mà thôi.

Chung Linh vỗ tay reo lên:

- Em biết được tên thuốc độc thì dễ lắm. Đoàn đại ca, để em đi kiếm cha em hỏi thuốc giải.

Nàng lật đật trèo qua bức tường cây đi kiếm phụ thân để hỏi thuốc giải Âm Dương Hòa Hợp Tán. Âm Dương Hòa Hợp Tán là thuốc của người áo xanh nhưng Chung Vạn Cừu vừa nghe tên biết ngay là loại gì, khuôn mặt ngựa xụ xuống mắng con:

- Đồ nhãi ranh, đến hỏi ấm ớ cái gì? Chỉ được cái lếu láo, ta lại nắm tai đánh cho một trận bây giờ.

Chung Linh hốt hoảng nói:

- Không phải lếu láo đâu ...

Ngay khi đó, Bảo Định Đế và tùy tùng đã tấn công vào Vạn Kiếp Cốc, Chung Vạn Cừu vội vàng chạy ra ứng chiến, bỏ mặc Chung Linh ở trong phòng. Nàng nghe thấy ở bên ngoài tiếng binh khí chạm nhau, hai bên đấu đến hồi kịch liệt nhưng chẳng thèm để ý, vẫn tiếp tục ở trong phòng thuốc của phụ thân lục lọi. Mấy trăm bình thuốc của Chung Vạn Cừu đều có ghi rõ tên nhưng kiếm mãi không ra thuốc giải của Âm Dương Hòa Hợp Tán. Nàng còn đang phân vân chưa biết tính sao bỗng nghe có người vào phòng, vội đi ra xem liền gặp phải Bảo Định Đế.

Bảo Định Đế chưa tìm ra ai dẫn đường bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người, quay lại thì ra Chung Linh chạy tới, vội đứng lại chờ. Chung Linh dến gần nói:

- Tôi không kiếm được thuốc giải, thôi dẫn ông đến đó vậy. Chẳng hiểu ông có đẩy nổi tảng đá lớn đó không.

Bảo Định Đế mừng quá hỏi lại:

- Giải dược gì? Tảng đá nào vậy?

Chung Linh đáp:

- Ông đi theo tôi, nhìn là biết ngay.

Đường trong Vạn Kiếp Cốc tuy loằng ngoằng thật nhưng có Chung Linh dẫn lộ, chỉ một lát là tới ngay. Bảo Định Đế cầm tay Chung Linh, không nhún chân đột nhiên vọt lên nhẹ nhàng đáp xuống bức tường cây. Chung Linh vỗ tay reo lên:

- Hay thật, hay thật! Tưởng chừng như ông biết bay. Ối chao, không xong rồi.

Đã thấy ngoài thạch thất có một người ngồi đó, chính là quái khách áo xanh. Chung Linh rất sợ con người sống dở chết dở này, nói nhỏ:

- Thôi mình ra đằng khác, đợi cho người đó đi rồi quay lại sau.

Bảo Định Đế thấy người áo xanh không đến nỗi gì quái dị lắm, vội an ủi cô gái:

- Có ta ở đây, cô không việc gì phải sợ. Đoàn Dự ở trong căn nhà đó, có đúng không?

Chung Linh gật đầu, nép vào sau lưng ông. Bảo Định Đế chậm rãi bước tới, nói:

- Xin tôn giá tránh ra một bước.

Người áo xanh như không nghe không thấy, vẫn ngồi yên không cử động. Bảo Định Đế nói:

- Nếu như tôn giá không chịu nhường đường, tại hạ có vô lễ cũng đừng trách.

Ông lách qua người áo xanh giơ chưởng phải lên để vào tảng đá, đang định vận kình đẩy, bỗng từ dưới tay người áo xanh thò ra một cây thiết trượng nhỏ, điểm vào huyệt Khuyết Bồn. Cây gậy sắt đến còn cách ông ta chừng một trượng bỗng ngừng lại, không ngớt rung động, nếu Bảo Định Đế tiếp tục sử kình thì thiết trượng sẽ đâm tới ngay, không còn đường nào tránh né. Bảo Định Đế trong bụng hơi bàng hoàng: "Người này công phu điểm huyệt thật là cao minh, vậy là ai đây?". Tay phải hơi giơ lên đánh luôn vào cây gậy đồng thời bàn tay trái lòn xuống dưới đặt luôn lên tảng đá. Người áo xanh lập tức nhích cây gậy sang chỉ vào huyệt Thiên Trì. Bảo Định Đế liên tiếp đánh ra như gió biến đổi bảy phương vị liền nhưng cây gậy sắt của người áo xanh cũng liên tiếp hư điểm các nơi huyệt đạo, chế ngự cuộc thế.

Hai người liên tiếp biến chiêu, công phu nhận huyệt của người áo xanh thật chuẩn xác khiến cho Bảo Định Đế không cách nào có thể vận kình đẩy tảng đá. Ông thấy y với mình cũng tám lạng nửa cân, xem ra còn hơn em mình là Đoàn Chính Thuần một mức. Tả chưởng ông đánh xéo ra, đột nhiên từ chưởng biến thành chỉ, nghe sùy một tiếng, sử dụng Nhất Dương Chỉ điểm vào thiết trượng, nếu như điểm thực cây gậy thể nào cũng cong lại. Ngờ đâu cây gậy sắt củng sùy một tiếng điểm trở ra, hai luồng lực đạo trên không đụng vào nhau, Bảo Định Đế phải lùi một bước, còn thân hình người áo xanh cũng lảo đảo.

Trên mặt Bảo Định Đế ánh lên sắc hồng còn người áo xanh thoánh hiện một màu xanh nhưng hai người vừa bừng lên là biến đi ngay. Bảo Định Đế lạ lùng, nghĩ thầm: "Võ công người này không những cực kỳ cao cường, nhưng xem ra với ta có chút uyên nguyên. Trượng pháp của y với Nhất Dương Chỉ rõ ràng có liên quan".

Ông liền chắp tay nói:

- Tôn tính đại danh tiền bối là gì, làm ơn cho biết.

Chỉ nghe một thanh âm vọng lên:

- Nhà ngươi là Đoàn Chính Minh hay là Đoàn Chính Thuần?

Bảo Định Đế thấy y không mấp máy môi chút nào, vậy mà vẫn nói chuyện được, càng thêm ngạc nhiên, nói:

- Tại hạ là Đoàn Chính Minh.

Người áo xanh hừ một tiếng nói:

- Thì ra ngươi là đương kim Bảo Định Đế nước Đại Lý?

Bảo Định Đế đáp:

- Chính thị.

Người áo xanh hỏi:

- Võ công ngươi so với ta, ai hơn ai kém?

Bảo Định Đế trầm ngâm giây lát đáp:

- Võ công tiền bối có hơn chút đỉnh nhưng nếu thực sự động thủ thì ta sẽ thắng.

Người áo xanh nói:

- Đúng vậy, ta dẫu sao cũng bị thiệt thòi là thân thể tàn phế. Ôi, có ngờ đâu ngươi ở ngôi vị cao như thế nhưng trong bao nhiêu năm nay vẫn không chểnh mảng việc luyện công.

Tuy thanh âm y phát xuất từ trong bụng nghe quái lạ nhưng nghe ngữ âm vẫn đầy vẻ tiếc nuối và thất vọng. Bảo Định Đế không đoán được lai lịch của y, trong bụng nảy ra bao nhiêu mối nghi ngờ. Bỗng từ trong thạch thất truyền ra tiếng gào thét nóng nảy, chính là của Đoàn Dự. Bảo Định Đế kêu lên:

- Dự nhi, cháu đấy ư? Không việc gì phải hoảng hốt, ta đến cứu cháu đây.

Chung Linh cũng kinh hãi kêu lên:

- Đoàn công tử! Đoàn công tử!

Thì ra Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh bị xuân dược thôi thúc mãnh liệt, càng lúc càng khó mà kháng cự lại được tình dục. Về sau Mộc Uyển Thanh thần trí mơ hồ, quên mất Đoàn Dự là anh của mình, luôn mồm gọi:

- Đoàn lang, ôm em đi, ôm chặt lấy em đi!

Nàng là gái còn tân, việc trai gái chưa từng biết đến, chỉ thấy người nóng như thiêu không chịu nổi, chỉ muốn Đoàn Dự ôm lấy mình cho hạ xuống nên xông vào chộp lấy chàng. Đoàn Dự kêu lên:

- Không được đâu!

Chàng lách người tránh ra, chân tự nhiên sử dụng Lăng Ba Vi Bộ. Mộc Uyển Thanh vồ không trúng, ngã lăn lên giường ngất đi. Đoàn Dự liên tiếp đi thêm mấy bước, nội tức trong người thuận theo kinh mạch mà vận hành, càng chạy càng nhanh khiến cho mỗi lúc càng thêm ngộp thở, tưởng như không hút nổi khí trời nữa nên nhịn không nổi phải rống lên một tiếng. Nhờ tiếng gào đó mà ngực thấy dễ thở hơn, nên chàng cứ đi vài bước lại hét lên một tiếng, ý niệm tình dục cũng vì thế mà giảm dần nhưng những câu đối đáp của Bảo Định Đế với người áo xanh cũng như tiếng gọi của bá phụ chàng lọt vào tai mà không nghe gì cả.

Người áo xanh nói:

- Tên tiểu tử này định lực giỏi thật, uống phải Âm Dương Hòa Hợp Tán của ta rồi, vậy mà còn giữ được tới giờ phút này.

Bảo Định Đế kinh hãi, hỏi lại:

- Thứ độc dược đó là gì thế?

Người áo xanh đáp:

- Không phải độc dược, chỉ là một loại xuân dược cực mạnh thôi.

Bảo Định Đế hỏi:

- Ngươi cho y uống loại thuốc đó là có ý gì?

Người áo xanh đáp:

- Trong thạch thất còn có một người nữa, chính là em gái nó.

Bảo Định Đế vừa nghe qua biết ngay âm mưu độc kế của người nọ. Ông tu dưỡng đã cao nhưng nghe thế không khỏi nổi cơn thịnh nộ, tay áo liền vung lên, nghe soẹt một tiếng đã phóng ra một chỉ. Người áo xanh giơ trượng lên gạt ra, chỉ thứ hai của Bảo Định Đế đã tung ra nhắm ngay vào huyệt Thất Đột dưới yết hầu, là một huyệt chí mạng liệu rằng y sẽ phải giở toàn lực ra chống đỡ.

Ngờ đâu người áo xanh chỉ cười ha ha, không tránh né cũng chẳng chống đỡ. Bảo Định Đế thấy y không chống trả, cũng không tránh né, trong bụng nghi ngờ, lập tức thu chỉ hỏi:

- Sao ngươi lại chịu chết là sao?

Người áo xanh đáp:

- Ta chết dưới tay ngươi thì thật tốt quá, tội nghiệt nhà ngươi càng dầy thêm một tầng.

Bảo Định Đế hỏi lại:

- Ngươi thực sự là ai vậy?

Người áo xanh hạ giọng nói nhỏ một câu gì đó. Bảo Định Đế nghe qua, sắc mặt lập tức biến đổi nói:

- Ta không tin.

Người áo xanh đưa cây gậy từ tay phải sang tay trái, ngón tay trỏ bên phải sùy một tiếng, điểm về phía Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêng người tránh qua, trả lại một chỉ. Người áo xanh ngón tay giữa búng ra, Bảo Định Đế mặt mày trịnh trọng cũng lấy ngón giữa đáp lễ. Chiêu thứ ba của người áo xanh dùng ngón tay vô danh quét ngang, còn chiêu thứ tư dùng ngón út khẩy nhẹ. Bảo Định Đế từng chiêu từng chiêu đáp lại.

Đến chiêu thứ năm, người áo xanh lấy ngón tay cái miết xuống, trong năm ngón ngón tay cái ngắn nhất, cũng chậm chạp không linh hoạt nhưng lực đạo lại mạnh nhất, Bảo Định Đế không dám coi thường cũng giơ ngón cái của mình lên bật qua đối phương.

Chung Linh đứng bên cạnh coi thấy lạ lùng, quên cả sợ hãi người áo xanh, cười nói:

- Hai người đang đánh đố tay chăng? Bên này giơ một ngón, bên kia giơ một ngón xem ai thắng chứ gì?

Nàng vừa nói vừa đi tới gần. Bỗng đâu một luồng kình phong lặng lẽ xô tới, Chung Linh còn đang ngạc nhiên, vai trái đau nhói lên tưởng như muốn ngất đi. Bảo Định Đế hất tay về sau nhẹ nhàng đẩy nàng ra ngoài, tiếp đó nhảy lùi về sau đỡ lấy nàng nói:

- Đứng yên đừng cử động.

Chung Linh sững sờ hỏi:

- Ông ta ... ông ta định giết tôi ư?

Bảo Định Đế lắc đầu:

- Không phải. Ta cùng y đang tỉ thí võ công, người ngoài không đến gần được.

Ông giơ tay vỗ nhẹ lên lưng nàng mấy cái. Người áo xanh hỏi:

- Ngươi đã tin chưa?

Bảo Định Đế tiến lên mấy bước khom lưng nói:

- Chính Minh tham kiến tiền bối.

Người áo xanh nói:

- Ngươi gọi ta là tiền bối tức là không nhận ta hay vì chưa tin hẳn?

Bảo Định Đế đáp:

- Chính Minh này thân làm chủ một nước, lời nói hành vi lúc nào cũng phải cẩn thận. Chính Minh không có con, Đoàn Dự kia trên vai chất gánh nặng tông miếu xã tắc, xin tiền bối thả y ra.

Người áo xanh nói:

- Ta đang muốn cho họ Đoàn Đại Lý làm loạn nhân luân, bại hoại đạo đức, đoạn tử tuyệt tôn. Ta phải đợi bao lâu mới có ngày này, lẽ nào lại dễ dàng buông tay?

Bảo Định Đế gay gắt đáp:

- Đoàn Chính Minh này nhất quyết không thể bằng lòng.

Người áo xanh cười ha hả nói:

- Ngươi tự xưng là hoàng đế nước Đại Lý, đối với ta thì chỉ là kẻ soán vị đoạt triều, loạn thần tặc tử mà thôi. Nếu ngươi có gan thì việc quay về đem tay chân quân lính tới đây. Ta bảo cho ngươi biết, thế lực ta kém xa ngươi thật nhưng muốn giết tên tiểu tặc Đoàn Dự thì thật dễ như trở bàn tay. Còn như bây giờ ngươi ra tay đánh với ta, trong vài trăm chiêu chưa chắc đã thắng, muốn giết ta cũng thật khó vô cùng. Nếu ta không chết thì ngươi đâu có cứu nổi tính mạng Đoàn Dự.

Khuôn mặt Bảo Định Đế lúc thì xanh, lúc thì trắng biết lời của y quả không sai, không nói gì trở về đem binh lính tới mà chỉ cần mình có thêm một người tiếp tay thì người áo xanh cũng đã không chống đỡ nổi rồi nhưng y sẽ ra tay làm hại Đoàn Dự ngay, huống chi thân phận người này mình không thể nào ra tay giết y được. Ông bèn hỏi:

- Ông muốn thế nào thì mới chịu thả y ra?

Người áo xanh đáp:

- Dễ lắm, dễ lắm! Ngươi chỉ cần bằng lòng lên chùa Thiên Long xuất gia làm sư, đem hoàng vị nhường lại cho ta, ta sẽ cho Đoàn Dự uống thuốc giải, trả lại cho ngươi đứa cháu ngoan khỏe mạnh bình thường, đức hạnh vẹn toàn.

Bảo Định Đế đáp:

- Cơ nghiệp của tổ tông, đâu có lý nào tùy tiện dâng cho người khác được?

Người áo xanh cười ha hả nói:

- Thế đây là cơ nghiệp của ngươi hay là cơ nghiệp của ta? Vật qui nguyên chủ hay là tùy tiện dâng cho người? Ta không truy cứu tội mưu triều soán nghịch của nhà ngươi cũng đã là khoan hồng đại lượng lắm rồi, nếu như chấp nê không nghe thì cứ việc ngồi chờ, đợi đến bao giờ Đoàn Dự cùng với em gái y sinh được đứa con thì lúc ấy ta sẽ thả cho ra.

Bảo Định Đế đáp:

- Thế thì ngươi giết nó đi còn hơn.

Người áo xanh nói tiếp:

- Ngoài chuyện đó ra còn hai đường khác nữa.

Bảo Định Đế hỏi:

- Đường gì?

Người áo xanh nói:

- Cách thứ nhất là ngươi đột nhiên ám toán ta, nhân khi ta không phòng bị giết quách đi thì cứu được y ra ngay.

Bảo Định Đế nói:

- Ta không thể ám toán ngươi được.

Người áo xanh lại tiếp:

- Nếu như ngươi có muốn ám toán cũng dễ gì thành công. Con đường thứ hai là bảo Đoàn Dự đem Nhất Dương Chỉ công phu ra tỉ thí với ta, nếu thắng thì lúc ấy đi đâu chẳng được. Ha ha! Ha ha!

Bảo Định Đế bực tức, cơn giận đường như không còn nhịn nổi nhưng rồi cố dằn xuống nói:

- Đoàn Dự không biết chút võ công nào, lại chưa từng học công phu Nhất Dương Chỉ.

Người áo xanh cười khẩy:

- Cháu Đoàn Chính Minh nước Đại Lý mà lại không biết Nhất Dương Chỉ thì ai mà tin cho được?

Bảo Định Đế đáp:

- Đoàn Dự từ bé đọc sách vở thánh hiền, tụng kinh niệm Phật, bụng dạ từ bi, không chịu học võ.

Người áo xanh đáp:

- Thế thì lại chỉ là một đứa giả nhân giả nghĩa, ngụy quân tử mua danh hão. Người như thế nếu mà làm vua nước Đại Lý này đâu có phải là phúc của dân đen, giết sớm ngày nào tốt ngày đó.

Bảo Định Đế gằn giọng nói:

- Tiền bối, có phải là không còn đường nào khác nữa chăng?

Người áo xanh nói:

- Năm xưa nếu như ta còn một con đường nào khác thì đâu đến nỗi sống dở chết dở như thế này. Người khác không cho ta con đường sống, lẽ nào ta lại mở đường cho hươu chạy?

Bảo Định Đế cúi đầu suy nghĩ một lát, đột nhiên ngửng đầu lên, mặt đầy vẻ cương nghị kêu lên:

- Dự nhi, ta sẽ tìm cách cứu cháu ra. Cháu chớ quên rằng mình là con cháu nhà họ Đoàn.

Chỉ nghe từ trong nhà đá vọng ra tiếng của Đoàn Dự:

- Bá phụ, bác tiến vào một ngón tay ... một ngón tay đâm chết cháu đi.

Lúc này chàng đã ngừng bước, ngồi dựa vào vách đá nghỉ ngơi nên nghe rõ ràng từng lời đối đáp của người áo xanh và Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêm giọng hỏi:

- Cái gì? Ngươi làm bại hoại môn phong tư cách nhà họ Đoàn rồi sao?

Đoàn Dự đáp:

- Không! Không đâu, điệt nhi ... điệt nhi nóng quá chịu không nổi, chắc ... chắc không sống được.

Bảo Định Đế đáp:

- Sinh tử hữu mệnh, hãy để thuận theo tự nhiên.

Ông giơ ra nắm tay Chung Linh đi ra khoảng đất trống, nhảy lên tường cây nói:

- Tiểu cô nương, cám ơn cô đã dẫn đường, ngày sau thể nào cũng báo đáp.

Ông theo đường cũ quay trở lại ngôi nhà chính. Chỉ thấy Chử Vạn Lý và Phó Tư Qui hai người đánh với Nam Hải Ngạc Thần, chưa biết bên thắng bên nào bại. Chu Đan Thần và Cổ Đốc Thành thì bị thanh phương đao của Diệp Nhị Nương ép cho càng lúc càng kém thế dường như không chịu nổi. Còn ở góc bên kia Vân Trung Hạc tuy chân không chậm lại chút nào nhưng thở hổn hển như bò rống, còn Ba Thiên Thạch nhún nhảy vẫn nhẹ nhàng như không.

Cao Thăng Thái chắp tay sau lưng đi qua đi lại làm như không quan tâm gì đến những trận đấu kịch liệt đang diễn ra chung quanh, thực ra mắt ông nhìn khắp sáu phía, tai nghe khắp tám phương, tinh thần tập trung theo dõi toàn cục, bên mình nếu như ai bị nguy hiểm gì sẽ lập tức ra tay giúp đỡ. Còn vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Tần Hồng Miên, Chung Vạn Cừu thì không thấy đâu.

Bảo Định Đế hỏi:

- Thuần đệ đâu?

Cao Thăng Thái đáp:

- Trấn Nam Vương đánh đuổi được Chung cốc chủ rồi cùng vương phi đi tìm Đoàn công tử.

Bảo Định Đế cao giọng truyền lệnh:

- Chuyện nơi đây có nhiều khúc mắc, mọi người lui lại đã.

Ba Thiên Thạch bèn đứng lại, Vân Trung Hạc bị lỡ trớn xông tới, nghe bình một tiếng, Ba Thiên Thạch đã đánh ra một chưởng. Vân Trung Hạc song chưởng giơ lên đỡ, thấy trên ngực khí huyết nhộn nhạo tưởng chừng hộc máu ra. Y cố gắng nén lại, mắt chỉ thấy hoa lên không còn nhìn rõ chiêu số của địch nữa. Ba Thiên Thạch không thừa thắng đánh tiếp, cười khẩy mấy tiếng nói:

- Lãnh giáo vậy đủ rồi.

Từ khu rừng ở bên cạnh có tiếng Đoàn Chính Thuần vọng ra:

- Ở đây không thấy gì, thôi mình đi ra đằng sau xem sao.

Đao Bạch Phượng nói:

- Đi kiếm xem có ai hỏi thăm nhưng chẳng thấy người nào cả.

Có tiếng Tần Hồng Miên:

- Sư muội ta bảo họ tránh đi cả rồi.

Bảo Định Đế nhìn Cao Thăng Thái, Ba Thiên Thạch mỉm cười, thấy Trấn Nam Vương quả là thần thông quảng đại, không biết làm cách nào mà khiến cho hai người đàn bà không đội trời chung kia cùng đi kiếm Đoàn Dự. Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói:

- Vậy thì mình đi kiếm sư muội bà hỏi thăm, thể nào nàng cũng biết Dự nhi đang ở đâu.

Đao Bạch Phượng nổi cáu nói:

- Không để cho ông đi kiếm Cam Bảo Bảo được, chẳng có ý tốt lành gì.

Tần Hồng Miên nói:

- Sư muội tôi có nói rằng từ rày về sau không bao giờ gặp lại ông nữa.

Ba người vừa nói vừa từ đằng sau lùm cây bước ra, Đoàn Chính Thuần thấy anh bèn hỏi:

- Đại ca, có cứu ... có tìm được Dự nhi chưa?

Ông vốn định hỏi "có cứu được chưa" nhưng không thấy Đoàn Dự ở đó nên vội nói trớ đi. Bảo Định Đế gật đầu:

- Tìm thấy rồi, mình về nhà sẽ nói chuyện sau.

Chu Đan Thần, Chử Vạn Lý nghe thấy hoàng thượng xuống chỉ bảo ngừng tay đều muốn bãi chiến nhưng Diệp Nhị Nương và Nam Hải Ngạc Thần càng đánh càng hăng, vẫn xáp tới không hở tay chút nào. Bảo Định Đế hơi nhướng lông mày nói:

- Thôi mình đi!

Cao Thăng Thái nói:

- Tuân mệnh.

Ông lấy thiết địch trong bọc ra, giơ sáo điểm vào yết hầu Nam Hải Ngạc Thần, tiếp theo nhấc tay lật một cái, vung ra tạt vào Diệp Nhị Nương. Hai chiêu đó đều thật lợi hại nhằm toàn chỗ sơ hở của địch nhân mà tấn công. Nam Hải Ngạc Thần lập tức lộn một vòng nhảy ra bên ngoài, nghe bộp một tiếng thiết địch đã đánh trúng tay Diệp Nhị Nương, mụ ta kêu oái lên một tiếng vội vàng nhảy vọt ra.

Thực ra Cao Thăng Thái võ công không giỏi hơn hai người này bao nhiêu, có điều ông ta đứng ngoài quan sát đã lâu, trong bụng đã tính toán cách đối phó với hai người. Hai chiêu đó tưởng như chỉ để tấn công Nam Hải Ngạc Thần kỳ thực chỉ là đánh nhứ, đột nhiên xuất kỳ bất ý đánh vào Diệp Nhị Nương để trả thù mụ ta đánh ông một chưởng hôm trước.

Trông ông ra tay tưởng như làm chơi ăn thiệt, nhẹ nhàng như không nhưng thực ra mỗi chiêu đều tính toán không biết bao nhiêu lần, dùng tất cả công lực bình sinh.

Nam Hải Ngạc Thần mở tròn đôi mắt hí, vừa kinh hoàng vừa bội phục nói:

- Tiên sư nó chứ, quả là giỏi thật, trông ngươi biết thế chó nào ...

Y không nói tiếp khúc dưới nhưng mọi người đều hiểu là "Trông ngươi đâu biết được lợi hại đến thế, xem chừng ta không phải là đối thủ". Đao Bạch Phượng hỏi Bảo Định Đế:

- Hoàng thượng, Dự nhi ra thế nào?

Bảo Định Đế trong lòng hết sức lo lắng nhưng mặt vẫn điềm tĩnh như thường, thản nhiên nói:

- Không sao cả. Trước mắt hãy để cho nó có dịp rèn mài một phen, sau một vài ngày thì sẽ ổn thỏa, những chuyện khác về cung ta sẽ tính.

Ông nói rồi quay mình ra đi. Ba Thiên Thạch vượt lên trước dẫn đường, vợ chồng Đoàn Chính Thuần đi sát ngay sau huynh trưởng, kế đến là Chử, Cổ, Phó, Chu tứ hộ vệ, sau cùng là Cao Thăng Thái. Y vừa mới ra một tuyệt chiêu trấn nhiếp kẻ địch, Nam Hải Ngạc Thần tuy hung hăng bạo tợn nhưng cũng không dám đuổi theo gây sự.

Đoàn Chính Thuần đi được mươi trượng rồi, nhịn không nổi quay đầu đưa mắt nhìn Tần Hồng Miên, Tần Hồng Miên cũng đang ngơ ngẩn nhìn theo, bốn mắt chạm nhau hai người đều mê mẩn.

Chung Vạn Cừu tay cầm Đại Hoàn Đao thở hồng hộc từ sau nhà chạy ra ậm ọe:

- Đoàn Chính Thuần, lần này ngươi không gặp vợ ta là may cho ngươi lắm đó, có thế ta mới không cho ngươi một trận. Phu nhân ta đã thề rồi, từ rày trở đi không thèm nhìn mặt ngươi. Chẳng qua ... chẳng qua cũng chẳng phải gì, nàng sợ gặp cái đồ mặt mẹt ngươi, biết đâu chừng con mẹ nó lại ... nói qua nói lại một điều là ngươi không gặp được nàng nữa là xong.

Y đấu với Đoàn Chính Thuần được vài chiêu biết là không cách gì thắng được vội vàng quay vào canh chừng vợ, đề phòng Đoàn Chính Thuần đến tán tỉnh, nghe phu nhân lập lời thề không nhìn mặt Đoàn Chính Thuần mừng không để đâu cho hết vội vàng chạy ra nhắc lại những câu đoạn tình đoạn nghĩa ấy cho tình địch nghe.


Đoàn Chính Thuần trong lòng bồi hồi, nhủ thầm: "Thì đã sao? Vì sao lại không nhìn mặt ta nữa? Nàng nay là kẻ ván đã đóng thuyền, ta lẽ nào còn làm bại hoại danh tiết nàng hay sao? Đoàn nhị nước Đại Lý tuy phong lưu hiếu sắc thật nhưng nào có phải là kẻ hạ lưu vô sỉ. Nếu ta gặp lại nàng mà hai người chỉ lạnh nhạt không nói được với nhau một câu thì thà không gặp còn hơn". Ông quay lại thấy vợ lạnh lùng nhìn mình không khỏi chột dạ, vội vàng rảo bước đi ra khỏi cốc.

*

* *

Đoàn người về đến Đại Lý rồi, Bảo Định Đế nói:

- Tất cả vào cung thương nghị.

Vào đến thư phòng trong hoàng cung, Bảo Định Đế ngồi tại một chiếc ghế bành lớn lót da báo ngay chính giữa, vợ chồng Đoàn Chính Thuần ngồi bên dưới còn Cao Thăng Thái và những người khác thõng tay đứng hầu. Bảo Định Đế sai nội thị đem ghế lên cho mọi người cùng ngồi rồi vẫy tay cho những người hầu lui ra, đem chuyện Đoàn Dự bị rơi vào tay địch như thế nào kể hết cho mọi người cùng nghe.

Ai nấy đều biết tất cả chẳng qua từ người áo xanh mà ra, nghe Bảo Định Đế kể lại y không những biết Nhất Dương Chỉ, mà công lực còn cao cường hơn ông nên không ai dám nhiều lời, ai cũng cúi đầu trầm ngâm. Nhất Dương Chỉ là công phu thế đại tương truyền của họ Đoàn, chỉ dạy cho con trai mà không dạy cho con gái, không truyền cho người ngoài, người áo xanh biết công phu này thì nhất định phải là giòng dõi họ Đoàn.

Bảo Định Đế quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:

- Thuần đệ, chú thử nghĩ xem người này là ai?

Đoàn Chính Thuần lắc đầu đáp:

- Tiểu đệ đoán không ra, không lẽ chùa Thiên Long có người nào hoàn tục cải trang chăng?

Bảo Định Đế lắc đầu:

- Không phải, đó là thái tử Diên Khánh.

Lời đó vừa nói ra, mọi người ai nấy giật mình. Đoàn Chính Thuần nói:

- Thái tử Diên Khánh đã chết rồi, người này chắc là mượn danh để làm càn thôi.

Bảo Định Đế thở dài:

- Tên tuổi có thể giả mạo nhưng công phu Nhất Dương Chỉ thì giả mạo làm sao được. Dẫu có học lén chăng nữa thì cũng là chuyện thường trong võ lâm thôi nhưng nội công tâm pháp thì làm sao học trộm được? Người này là thái tử Diên Khánh không còn nghi ngờ gì nữa.

Đoàn Chính Thuần trầm ngâm một hồi, hỏi thêm:

- Thế thì y chính là một giòng họ Đoàn nhà ta, sao lại muốn làm bại hoại môn phong thanh dự chúng mình?

Bảo Định Đế thở dài:

- Người này một thân tàn tật cho nên tính tình thật khác thường, không thể lấy thường lý mà đo lường được. Huống chi ta đang ở ngôi đế vương nước Đại Lý nên bụng y thù hận càng muốn làm cho anh em ta thân bại danh liệt cho hả lòng.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Đại ca lên ngôi đã lâu, thần dân ai nấy kính ngưỡng, bốn phương thanh bình, chẳng nói gì chỉ Diên Khánh thái tử mà dẫu vua Thượng Đức có sống lại cũng không thể trở lên ngôi được.

Cao Thăng Thái đứng bật dậy tâu:

- Lời của Trấn Nam Vương quả thật xác đáng. Thái tử Diên Khánh nếu như giao lại Đoàn công tử thì không nói gì, còn không chúng ta sẽ không coi y là thái tử hay không thái tử, chỉ biết y là kẻ đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân trong thiên hạ ai nấy đều có quyền tru diệt. Võ công y tuy cao cường thật nhưng không thể nào đánh lại được số đông.

Thì ra hơn mười năm trước vào năm Thượng Đức ngũ niên, Thượng Đức Đế Đoàn Liêm Nghĩa đang tại vị triều đình bỗng sinh đại biến, nhà vua bị gian thần Dương Nghĩa Trinh giết chết. Cháu vua Thượng Đức là Đoàn Thọ Huy được các cao tăng chùa Thiên Long và trung thần Cao Trí Thăng giúp đỡ nên bình diệt được Dương Nghĩa Trinh lên nối ngôi xưng là Thượng Minh Đế. Thượng Minh Đế không thích làm vua nên chỉ ở ngôi một năm rồi bỏ ngai vàng đi tu ở chùa Thiên Long, nhường ngôi cho em họ là Đoàn Chính Minh tức Bảo Định Đế. Vua Thượng Đức vốn có một người con trai là thái tử Diên Khánh nhưng khi gian thần Dương Nghĩa Trinh soán ngôi đất nước đại loạn, y không biết đi đâu mất, ai nấy cho rằng đã bị Dương Nghĩa Trinh sát hại rồi, ngờ đâu bao nhiêu năm nay đột nhiên xuất hiện.

Bảo Định Đế nghe Cao Thăng Thái nói lắc đầu:

- Hoàng vị vốn dĩ là của thái tử Diên Khánh, khi xưa vì không kiếm thấy y, Thượng Minh Đế mới phải lên ngôi, sau đó mới truyền lại cho ta. Thái tử Diên Khánh nếu quay lại, ngôi vua này phải trả lại cho y mới phải.

Ông quay đầu nói với Cao Thăng Thái:

- Lệnh tôn nếu như còn tại thế ắt cũng một ý đó thôi.

Cao Thăng Thái là con của đại công thần Cao Trí Thăng năm xưa trừ gian diệt bạo toàn là công lao của ông ta. Cao Thăng Thái tiến lên một bước, phục xuống tâu:

- Tiên phụ trung với vua, yêu thương dân, thanh bào quái khách này là kẻ đứng đầu tứ ác, nếu như ngồi trên ngôi cửu ngũ, đứng trên trăm họ, muôn dân nước Đại Lý sẽ phải chịu không biết bao nhiêu khốn khổ. Việc hoàng thượng hỏi ý nhường ngôi, thần Thăng Thái dẫu chết vạn lần cũng không dám phụng chiếu.

Ba Thiên Thạch cũng phục xuống đất tâu:

- Mới rồi thần Thiên Thạch nghe Nam Hải Ngạc Thần gọi người đứng đầu trong tứ ác là Ác Quán Mãn Doanh. Ác nhân đó nếu không phải thái tử Diên Khánh thì dĩ nhiên không thể nào giành ngôi đại bảo, còn như nếu y thực sự là thái tử Diên Khánh, một kẻ hung ác gian hiểm như thế làm sao có thể để y cai trị trăm họ nước Đại Lý? Nếu như vậy ắt quốc gia sẽ sụp đổ, xã tắc sẽ luân vong.

Bảo Định Đế xua tay nói:

- Hai vị đứng lên, những điều các ngươi nói quả là hữu lý. Có điều Dự nhi rơi vào tay họ, trừ khi ta nhường ngôi cho chúng, có cách nào đưa được Dự nhi về đâu?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Đại ca, từ xưa đến nay chỉ có khi quân phụ gặp nạn, thần tử xả thân ra cứu. Dự nhi tuy được đại ca yêu thương nhưng đâu có vì nó mà phải từ bỏ ngôi báu? Nếu làm như thế thì dù cho Dự nhi thoát hiểm cũng thành kẻ đại tội của nước Đại Lý này.

Bảo Định Đế đứng lên, giơ tay trái vuốt bộ râu dài dưới cằm, tay phải giơ hai ngón tay gõ gõ trên trán, chậm rãi đi bách bộ trong thư phòng. Mọi người biết ông khi gặp chuyện lớn khó khăn quyết định đều như thế để suy nghĩ nên không ai dám lên tiếng làm cản trở giòng tư tưởng của ông. Bảo Định Đế đi qua đi lại, một hồi thật lâu mới nói:

- Gã Diên Khánh thái tử kia thủ đoạn thật là độc ác, cho Dự nhi uống Âm Dương Hòa Hợp Tán, dược tính thật là lợi hại, người thường khó mà đề kháng. Chỉ sợ ... chỉ sợ ... giờ phút này y đã bị thuốc làm cho mê man, thật không biết thế nào. Ôi, đây là gian kế của người ta bày ra, không thể nào trách Dự nhi được.

Đoàn Chính Thuần cúi đầu, xấu hổ vô cùng, nghĩ thầm đầu dây mối nhợ cũng chỉ vì mình có tính phong lưu mà ra. Bảo Định Đế quay trở lại chiếc ghế đang ngồi nói:

- Ba Tư Không, truyền hạ chỉ ý, ra lệnh cho Hàn Lâm Viện thảo chiếu phong cho em ta Chính Thuần làm Hoàng Thái Đệ.

Đoàn Chính Thuần hoảng hốt, vội vàng quì xuống tâu:

- Đại ca đang lúc thân thể cường tráng, công đức ban bố cho toàn dân, trời cao thể nào cũng phù hộ để cho con đàn cháu đống. Chức Hoàng Thái Đệ kia xin hãy khoan bàn đến.

Bảo Định Đế giơ tay đỡ lên nói:

- Anh em ta như thể tay chân, giang sơn Đại Lý này vốn do cả hai chúng mình cùng chấp chưởng, không nói gì ta không có con, dẫu như có con có cháu thì cũng truyền ngôi cho em. Thuần đệ, ta vốn đã có ý lập chú làm người kế thừa từ lâu, trong nước người người ai cũng biết. Hôm nay phải sớm định danh phận cốt để cho thái tử Diên Khánh tiêu tan hi vọng.

Đoàn Chính Thuần suy từ thêm mấy lần nữa nhưng đều không được, đành phải khấu đầu tạ ơn. Bọn Cao Thăng Thái liền tiến lên chúc mừng. Bảo Định Đế không có con cái, ngôi vua về sau ắt sẽ truyền cho Đoàn Chính Thuần, việc đó ai cũng đã biết nên không ai ngạc nhiên. Bảo Định Đế nói:

- Thôi mọi người lui về nghỉ ngơi. Việc thái tử Diên Khánh chỉ nên cho Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã hai người biết mà thôi, không được tiết lậu cho người khác.

Mọi người lên tiếng đáp ứng, khom mình cáo biệt. Ba Thiên Thạch lập tức đi xuống Hàn Lâm Viện truyền chiếu chỉ của nhà vua.

*

* *

Bảo Định Đế dùng cơm xong, ngủ một chốc, lúc tỉnh dậy nghe thấy ngoài cung vọng vào tiếng reo hò, chuông trống, tiếng pháo trúc ầm ỹ. Nội giám tiến vào phục vụ nhà vua thay quần áo, bẩm báo:

- Bệ hạ sách phong Trấn Nam Vương làm Hoàng Thái Đệ, dân chúng hoan hô chúc mừng thật là náo nhiệt.

Nước Đại Lý trong những năm gần đây không có việc binh đao, triều chính sáng suốt, dân chúng an cư lạc nghiệp, dân chúng cực kỳ kính mến hoàng đế, Trấn Nam Vương, Thiện Xiển Hầu và những quan chức. Bảo Định Đế nói:

- Truyền chỉ ý của trẫm ngày mai mở hội hoa đăng, trong thành Đại Lý bãi bỏ lệnh ngăn sông cấm chợ, khao thưởng ba quân, đem rượu thịt thưởng cho những người già cả cô nhi.

Đạo chỉ ý đó truyền xuống, dân chúng trong thành Đại Lý ai nấy đều mừng rỡ. Đến tối hôm đó, Bảo Định Đế thay quần áo thường, một mình ra khỏi cung. Ông kéo sụp mũ xuống che kín lông mày chỉ hở hai con mắt. Trên đường đi đâu đâu cũng thấy trăm họ vỗ tay hát hò, thanh niên nam nữ vừa múa vừa ca. Thời đó nhân sĩ Trung Nguyên coi Đại Lý là nước man di, lễ nghi so với trung thổ hoàn toàn khác hẳn, trên đường trai gái dắt díu nhau đi chơi, cười cợt nô đùa chẳng phải để ý đến ai, cũng chẳng ai coi là chuyện lạ. Bảo Định Đế trong bụng khấn thầm: "Cầu mong cho dân chúng nước Đại Lý ta đời đời kiếp kiếp được hoan lạc như thế này".

Ông ra khỏi thành rồi lập tức rảo bước đi thêm chừng hai mươi dặm thì lên trên một ngọn núi, càng lúc càng hoan tịch, đi vòng qua bốn thung lũng đến trước một cái miếu cổ nho nhỏ, trên đề ba chữ Niêm Hoa Tự. Phật giáo là quốc giáo của nước Đại Lý nên trong ngoài kinh thành chùa lớn cũng vài chục còn chùa nhỏ tính hàng trăm, ngôi Niêm Hoa Tự này ở nơi hẻo lánh, ít người khói hương, ngay cả người Đại Lý phần lớn cũng chẳng ai biết đến.

Bảo Định Đế đứng trước cửa chủa trầm ngâm khấn nguyện một hồi sau đó mới tiến tới nhẹ nhàng gõ vào cửa ba tiếng. Một lúc lâu sau, một chú tiểu mở cửa chùa chắp tay hỏi:

- Tôn khách quang lâm chẳng hay có chuyện gì?

Bảo Định Đế đáp:

- Xin phiền thông báo cho Hoàng Mi đại sư là có cố nhân Đoàn Chính Minh đến viếng.

Chú tiểu nói:

- Xin mời vào.

Nói xong quay mình dẫn đường cho khách. Bảo Định Đế tiến vào trong chùa, bỗng nghe hai tiếng chuông boong boong từ hậu viện truyền ra, lập tức cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, thần nhàn ý tĩnh. Hai người đạp trên những lá khô rơi trên thềm đi đến phía sau, chú tiểu nói:

- Xin tôn khách ở đây chờ một chút để tôi đi bẩm cho sư phụ biết.

Bảo Định Đế đáp:

- Được.

Ông chắp tay sau lưng đứng giữa sân nhìn lá vàng từ trên cây ngân hạnh lả tả rơi. Trong đời ông hiếm khi nào phải đứng ngoài cửa chờ người khác thế nhưng khi bước chân vào Niêm Hoa Tự này, bao nhiêu tục niệm đều tiêu tan, quên hẳn mình là chúa tể của cả một cõi trời nam.

Bỗng nghe một giọng già nua cười nói:

- Đoàn hiền đệ có chuyện gì khó khăn thế?

Bảo Định Đế quay đầu nhìn lại thấy một nhà sư già thân thể cao to, mặt đầy vết nhăn đang từ trong căn nhà nhỏ bước ra. Vị lão tăng đó có đôi lông mày dài vàng cháy, mi mao rủ xuống, chính là hòa thượng Hoàng Mi.

Bảo Định Đế chắp hai tay nói:

- Đến quấy quả việc thanh tu của đại sư.

Hoàng Mi hòa thượng mỉm cười nói:

- Xin mời vào.

Bảo Định Đế tiến vào trong căn nhà nhỏ thấy hai nhà sư trung niên đứng vái chào, biết đó là đệ tử của Hoàng Mi nên cũng giơ tay đáp lễ rồi xếp bằng ngồi xuống chiếc bồ đoàn ở phía tây, đợi cho hòa thượng Hoàng Mi ngồi ngay ngắn nơi chiếc đệm phía đông mới lên tiếng nói:

- Tôi có một đứa cháu tên là Đoàn Dự, năm lên bảy tuổi đã từng đem nó đến đây nghe sư huynh giảng kinh.

Hoàng Mi tăng mỉm cười:

- Thằng bé đó có ngộ tính khá, quả là đứa ngoan, ngoan lắm.

Bảo Định Đế nói:

- Nó nhờ được Phật pháp điểm hóa nên tính tình từ bi, không chịu học võ để khỏi sát sinh.

Hoàng Mi tăng nói:

- Không biết võ công vẫn có thể giết người, biết võ công chưa chắc đã giết người.

Bảo Định Đế đáp:

- Phải lắm!

Ông đem chuyện Đoàn Dự kiên quyết không chịu học võ, bỏ nhà trốn đi, làm sao gặp được Mộc Uyển Thanh, rồi bị Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân là thái tử Diên Khánh bắt giam trong thạch thất kể lại. Hoàng Mi tăng mỉm cười lắng tai nghe, không xen vào nửa lời còn hai đệ tử đứng sau lưng ông thõng tay hầu thầy mặt lạnh như tiền các bắp thịt trên mặt không hề rung động chút nào.

Đến khi Bảo Định Đế nói xong, Hoàng Mi tăng mới chậm rãi nói:

- Nếu như thái tử Diên Khánh là đường huynh của hiền đệ, hiền đệ không tiện động thủ với y mà sai hạ thuộc đến cứu người thì cũng không ổn.

Bảo Định Đế nói:

- Sư huynh nhận định sáng suốt lắm.

Hoàng Mi tăng nói tiếp:

- Trong các cao tăng chùa Thiên Long cũng có người võ công giỏi hơn hiền đệ nhưng bọn họ cũng đều trong họ Đoàn mà ra, không tiện tham dự tranh chấp trong nội tộc mà giúp hiền đệ thành thử không thể lên đó cầu cứu được.

Bảo Định Đế đáp:

- Chính thế!

Hoàng Mi tăng gật đầu chậm rãi đưa ngón tay giữa ra, điểm vào ngực Bảo Định Đế. Bảo Định Đế mỉm cười, đưa ngón tay trỏ điểm ngay vào đầu ngón tay giữa của ông ta, hai người đều lắc lư một cái lập tức thu chỉ về. Hoàng Mi tăng nói:

- Đoàn hiền đệ, Kim Cương chỉ của ta không thắng nổi Nhất Dương Chỉ của hiền đệ đâu.

Bảo Định Đế nói:

- Sư huynh đại trí đại tuệ, không cần phải dùng chỉ lực mà thủ thắng.

Hoàng Mi tăng cúi đầu không nói. Bảo Định Đế đứng lên nói:

- Năm năm trước đây, sư huynh bảo tiểu đệ miễn thuế muối cho dân Đại Lý, nhưng một là quốc dụng chưa đủ, hai nữa tiểu đệ định đợi cho đứa em Chính Thuần tiếp vị rồi mới thi hành nhân chính đó để dân chúng hướng về y. Thế nhưng ngay sáng mai, tiểu đệ sẽ ra lệnh bãi bỏ thuế muối.

Hoàng Mi tăng đứng bật dậy, khom lưng vái lạy, cung kính đáp:

- Hiền đệ tạo phúc cho muôn dân, lão tăng cảm kích ân đức không để đâu cho hết.

Bảo Định Đế cũng cúi xuống vái trả lễ, không nói thêm lời nào, lặng lẽ đi ra khỏi chùa. Ông về đến cung lập tức sai nội giám truyền lệnh đòi Ba Thiên Thạch vào chầu, cho y hay việc bãi bỏ thuế muối. Ba Thiên Thạch khom mình tạ ơn nói:

- Hồng ân của hoàng thượng thực là phúc của toàn dân.

Bảo Định Đế đáp:

- Mọi việc tiêu dùng trong cung nên cố giảm thiểu tiết kiệm. Nhà ngươi cùng Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã bào thảo cho kỹ càng, xem những gì mình có thể cắt xén được.

Ba Thiên Thạch tuân lệnh, từ biệt ra khỏi cung lập tức hẹn với Tư Đồ Hoa Hách Cấn cùng đến phủ Tư Mã Phạm Hoa thông báo việc bãi bỏ thuế muối, còn việc Đoàn Dự bị bắt cóc thì Ba Thiên Thạch đã nói cho hai người biết rồi. Phạm Hoa trầm ngâm rồi nói:

- Trấn Nam thế tử bị rơi vào tay kẻ gian, hoàng thượng hạ chỉ miễn trừ thuế muối chắc là để cầu trời thương xót phù hộ cho thế tử được trở về bình an. Bọn thần tử chúng ta nếu chẳng chia xẻ cái nỗi lo của đấng chí tôn thì còn mặt mũi nào đứng ở trong triều?

Ba Thiên Thạch nói:

- Chính thế, nhị ca có diệu kế gì có thể cứu được thế tử chăng?

Phạm Hoa đáp:

- Nếu như đối thủ là thái tử Diên Khánh, hoàng thượng thật không muốn chính diện coi y là thù địch. Ta có một cách này nhưng có điều phải làm phiền đến đại ca thôi.

Hoa Tư Đồ vội hỏi:

- Cái gì mà phải làm phiền? Nhị đệ mau mau nói ra.

Phạm Hoa đáp:

- Hoàng thượng nói rằng võ công của Diên Khánh thái tử còn hơn ngài một bậc, nếu như mình tới xông vào cứu thì không thể nào làm được. Đại ca, nghề cũ của đại ca hai mươi năm trước nay thử lại một lần được chăng?

Khuôn mặt rám nắng của Hoa Tư Đồ hơi đỏ lên, cười nói:

- Nhị đệ lại trêu ta nữa rồi.

Quan Tư Đồ Hoa Hách Cấn vốn tên là A Căn, xuất thân nghèo hèn, nay làm tới chức Tam Công ở Đại Lý nhưng khi chưa thành đạt thì làm nghề đào mả trộm kiếm ăn, chuyên đi đào mồ những vương công cự phú. Những người giàu có sau khi chết thường chôn theo những đồ vật quí giá, Hoa A Căn từ xa đào hầm thông vào phần mộ để lấy bảo vật. Tuy làm thế mất nhiều công thật nhưng vì thế không ai phát giác. Một hôm y đào trúng một mộ phần trong quan tài có võ công bí cấp chôn theo, theo đó mà tu luyện thành một môn ngoại công trác tuyệt mới bỏ cái nghề hạ tiện này, quay sang phò tá Bảo Định Đế, lập được nhiều công lao thăng lên đến chức Tư Đồ.

Khi làm quan rồi ông thấy tên cũ khó nghe, đổi thành Hách Cấn, ngoại trừ Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa là hai người sinh tử chi giao, rất ít người biết rõ thân phận của ông. Phạm Hoa đáp:

- Tiểu đệ nào có dám đùa cợt đại ca? Tiểu đệ nghĩ bọn mình lẻn vào trong Vạn Kiếp Cốc, đào một đường hầm thông vào trong thạch thất giam Trấn Nam thế tử, lẳng lặng cứu y ra thì không ai có thể nào biết được.

Hoa Hách Cấn vỗ đùi reo lên:

- Hay lắm! Hay lắm!

Cái nghề đào mả trộm của y thật là tài trời cho, hơn hai mươi năm qua không còn dùng để mưu sinh nữa nhưng thỉnh thoảng nghĩ đến không khỏi ngứa ngáy chân tay, có điều thân đang giữ chức vụ cao, cực điểm phú quí, lại đi đào mả trộm thì còn ra thể thống gì nữa? Bây giờ nghe Phạm Hoa đề cập đến trong bụng mừng thầm.

Phạm Hoa cười nói:

- Đại ca đừng mừng vội, bên trong còn nhiều chuyện khó khăn. Tứ Đại Ác Nhân đều ở trong Vạn Kiếp Cốc, vợ chồng Chung Vạn Cừu và Tu La Đao cũng là những nhân vật cực kỳ lợi hại, muốn tránh không để họ biết thực không phải dễ. Hơn nữa, gã thái tử Diên Khánh kia ngồi canh ngoài thạch thất, đào hầm dưới chân y làm sao không để y phát giác được?

Hoa Hách Cấn trầm ngâm một hồi mới nói:

- Thế thì phải đào từ sau thạch thất mà vào để tránh chỗ của thái tử Diên Khánh.

Ba Thiên Thạch nói:

- Trấn Nam thế tử thời khắc nào cũng đều gặp phải hiểm nguy, chúng ta đào hầm e rằng công trình không phải nhỏ sợ không kịp chăng?

Hoa Hách Cấn đáp:

- Thế thì cả ba anh em mình cùng làm, hai vị hiền đệ chịu khó học ta cái nghề đào mồ ăn trộm vậy.

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Chúng ta làm đến Tam Công nước Đại Lý, nhưng sự bất đắc dĩ vì nghĩa mà phải làm cái việc đào mồ trộm mả đấy thôi.

Cả ba cùng vỗ tay cười ha hả. Hoa Hách Cấn nói:

- Việc không nên chậm trễ, nói là làm liền đi.

Nói xong Ba Thiên Thạch vẽ đồ hình trong Vạn Kiếp Cốc, Hoa Hách Cấn tính toán cửa hầm và đường đi, làm cách nào để tránh tai mắt người ngoài, làm thế nào chuyên chở được đất cát đem đi đổ mọi việc y đều tinh thông không ai sánh kịp.

*

* *

Trong một ngày một đêm qua, Đoàn Dự mỗi khi thấy trong người bứt rứt liền thi triển thân pháp Lăng Ba Vi Bộ ở trong thạch thất đi qua đi lại, chỉ cần một hai vòng là thấy dịu hẳn xuống. Thế nhưng Mộc Uyển Thanh thì người phát sốt, thần trí mơ hồ, phần lớn thời gian chỉ tựa lưng vào tường đá mà ngủ mê mệt.

Hôm sau vào khoảng giữa trưa, Đoàn Dự lại đi rảo bước trong căn phòng bỗng nghe bên ngoài thạch thất có tiếng người già cả ngâm:

Dọc ngang mười chín vạch,

Biết bao người mê say.

Cư sĩ nếu có thanh hứng, cùng với lão tăng đánh chơi một ván được chăng?

Đoàn Dự trong bụng lạ lùng vội vàng đi chậm lại, đi thêm mươi bước nữa rồi ngừng hẳn, ghé mắt nhìn qua cái lỗ hổng vẫn dùng để đưa cơm nhìn ra ngoài.

Chỉ thấy một nhà sư già mặt mũi nhăn nheo, lông mày vàng hoe, tay trái cầm một cái mõ to bằng miệng bát, tay phải cầm một chiếc dùi đen nhánh, gõ lên cái mõ mấy tiếng cốc cốc cốc, nghe âm thanh thì ra cái dùi đó đúc bằng sắt. Ông ta vừa niệm: "A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!" vừa cúi xuống phiến đá xanh ngay trước căn nhà đá dùng dùi mõ vạch, nghe xạo xạo, bột đá bay tung tóe đã vạch thành một đường thẳng.

Đoàn Dự thấy lạ lùng, khuôn mặt vị lão tăng này chàng dường như có gặp ở đâu rồi, kình lực bàn tay ông ta mạnh thật, chỉ tiện tay vạch lên mà trên nền đá thành một hằn sâu chẳng khác gì đục bằng dùi sắt của người thợ tiện, chiếc dùi mõ chỉ chầm chậm vạch qua thành một đường thẳng tắp còn người thợ nếu muốn đục được thẳng như thể không thể không vạch trước bằng mực đen.

Trước căn nhà đá một giọng nói uất nghẹn vang lên:

- Kim Cương chỉ lực, công phu giỏi lắm.

Chính là tiếng của người áo xanh Ác Quán Mãn Doanh. Thiết trượng của y liền thò ra vạch một đường ngang thẳng góc với đường của Hoàng Mi tăng, cũng ăn sâu vào đá thẳng băng. Hoàng Mi tăng cười nói:

- Thí chủ bằng lòng tứ giáo, hay lắm, hay lắm!

Ông ta liền đưa dùi lên vẽ thêm một đường thẳng nữa, người áo xanh liền vẽ một đường ngang. Cứ như thế bên này khắc một đường, bên kia khắc một đường, hai người ngưng tụ công lực, chùy trượng càng vẽ càng chậm dần để cho đường mình vẽ không có chỗ nông chỗ sâu hay cong vẹo thì thua đối phương hay sao.

Độ chừng ăn xong một bữa cơm, một bàn cờ dọc ngang mười chín đường đã ngay ngắn khắc xong, Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: "Chính Minh hiền đệ nói không sai, gã thái tử Diên Khánh này nội lực quả là cao cường". Thái tử Diên Khánh không phải như Hoàng Mi tăng đã chuẩn bị rồi mới đến nên trong bụng cũng hãi thầm: "Ở đâu lại nhảy ra một lão hòa thượng lợi hại đến thế này? Hẳn là Đoàn Chính Minh mời đến tiếp tay. Gã hòa thượng này cầm chân ta để cho Đoàn Chính Minh thừa cơ vào cứu Đoàn Dự, ta đâu có cách nào phân thân ra đối địch được".

Hoàng Mi tăng nói:

- Đoàn thí chủ công lực cao thâm, bội phục, bội phục. Kỳ lực của thí chủ ắt cũng phải gấp mười lão tăng, lão tăng muốn thí chủ nhường cho bốn quân.

Người áo xanh ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Chỉ lực của ngươi ghê gớm như thế hẳn là thân phận cao nhân. Ngươi đến thách ta đấu vừa mở miệng lại đòi nhường là sao?". Y bèn nói:

- Đại sư việc gì phải khiêm tốn quá như thế! Nếu muốn hơn thua thì phải đánh ngang tay chứ.

Hoàng Mi tăng đáp:

- Bốn quân không nhường được hay sao?

Người áo xanh thản nhiên đáp:

- Nếu đại sư tự biết kỳ thế không bằng thì còn tỉ đấu làm gì nữa.

Hoàng Mi tăng khẩn khoản:

- Thế thì ba quân được chăng?

Người áo xanh đáp:

- Chỉ nhường đi trước cũng đã là quá rồi.

Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:

- Hóa ra tài đánh cờ của ông cũng chẳng đến đâu, thôi thì để ta chấp ông ba quân vậy.

Người áo xanh đáp:

- Không cần phải thế, cứ đấu ngang tay mỗi người đi trước một lần là được rồi.

Hoàng Mi tăng càng thêm ngại ngùng nghĩ thầm: "Người này không kiêu căng mà cũng không nóng nảy, quả là kình địch, dù ta có khích cách nào cũng vẫn điềm tĩnh như không".

Thì ra Hoàng Mi tăng không có cách nào chắc ăn, biết người thích cờ thường hiếu thắng, mình mở miệng xin y chấp ba quân, bốn quân thường là đối phương bằng lòng, nhưng người này tính tình khác hẳn, không coi cái hư danh đó vào đâu, nếu như thái tử Diên Khánh tự phụ là mình cao cờ bằng lòng chấp quân thì mình thật là lợi thế, đấu cờ phần thắng sẽ nhiều hơn. Ngờ đâu thái tử Diên Khánh không chịp chấp quân mà cũng chẳng để ai nhường mình, không sơ hở chút nào, cực kỳ nghiêm cẩn.

Hoàng Mi tăng nói:

- Được rồi, ngươi là chủ, ta là khách, vậy ta đi trước.

Người áo xanh nói:

- Không được, rồng mạnh không đè nổi rắn đất, để ta đi trước.

Hoàng Mi tăng đáp:

- Thôi thế thì đánh đố để định xem ai đi trước. Vậy ngươi đoán thử lão tăng năm nay bao nhiêu tuổi, chẵn hay lẻ? Đoán trúng thì ngươi đi trước; còn đoán sai thì lão tăng đi trước.

Người áo xanh nói:

- Ta có đoán trúng chăng nữa ông cũng giở thói bài bây.

Hoàng Mi tăng nói:

- Được rồi, thế này thì ngươi đoán lão tăng không có thể chây được. Ngươi đoán thử sau năm bảy mươi tuổi, số ngón chân lão tăng hai bên tổng cộng là số chẵn hay số lẻ?

Câu đố dó quả thật quái lạ, người áo xanh nghĩ thầm: "Người bình thường có mười ngón chân, dĩ nhiên là chẵn rồi. Y nói rõ là sau năm bảy mươi tuổi chắc là để cho ta tưởng rằng sau năm bảy mươi tuổi y mất đi một ngón chứ gì? Binh pháp có nói là: Thực ấy là hư mà hư ấy là thực. Y còn đủ mười ngón chân nhưng cố tình giở trò đánh lạc hướng, ta đâu có trúng kế lão?". Y bèn nói:

- Số chẵn.

Hoàng Mi tăng đáp:

- Sai rồi, số lẻ.

Người áo xanh nói:

- Cởi giày ra xem nào!

Hoàng Mi tăng cởi giày vớ bên chân trái ra thấy đầy đủ năm ngón không thiếu ngón nào. Người áo xanh chăm chăm nhìn mặt đối phương thấy ông ta miệng mỉm cười, thần tình trấn tĩnh nghĩ thầm: "Thì ra chân phải y chỉ có bốn ngón". Lại thấy nhà sư từ từ cởi giày vải chân phải ra, giơ tay cởi vớ đang định nói: "Thôi khỏi cần kiểm chứng, ông đi trước đi" thì lại chợt nghĩ: "Không thể mắc hỡm y".

Hoàng Mi tăng lại cởi nốt vớ chân phải, chân phải cũng đầy đủ năm ngón, có tàn khuyết gì đâu?

Trong giây phút đó bao nhiêu ý nghĩa hiện ra trong đầu người áo xanh, không biết đối phương có ý định gì. Chỉ thấy nhà sư già giơ chiếc dùi sắt lên đánh mạnh xuống, nghe cách một tiếng chặt gãy luôn ngón chân út của mình. Hai người đệ tử đứng sau lưng thấy sư phụ tự hủy hoại thân thể, máu chảy vọt ra nhịn không nổi kêu "Ối" lên một tiếng. Đại đệ tử Phá Nghi vội lấy thuốc kim sang trong bọc ra rịt cho thầy, xé một mảnh tay áo băng lại.

Hoàng Mi tăng cười nói:

- Lão tăng năm nay sáu mươi chín tuổi, đến khi bảy mươi thì ngón chân ta là số lẻ.

Người áo xanh đáp:

- Quả đúng thế, đại sư đi trước đi.

Y có cái tên là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, bao nhiêu chuyện hung ác tàn bạo đã từng thấy cả rồi thì việc chặt đứt một ngón chân có đáng gì đâu nhưng nghĩ thầm nhà sư này chỉ vì muốn tranh tiên một nước mà đã ra tay như thế đủ biết ông ta nhất định phải thắng ván cờ này, một khi mình thua thì những điều kiện ông ta đưa ra sẽ thật là gay go.

Hoàng Mi tăng nói:

- Xin phép.

Ông ta cầm cái dùi lên khắc xuống điểm tứ tứ ở hai góc đối diện mỗi bên một cái vòng tròn nhỏ thế là coi như đã đi hai quân cờ trắng. Người áo xanh giơ cây gậy sắt ra ấn vào hai bên cạnh hai điểm tứ tứ còn lại mỗi bên một cái, lập tức nền đá xanh lõm xuống hai lỗ tức là đi hai quân đen. Cả bốn góc điểm tứ tứ đều có quân đen trắng thì gọi là "thế tử" là một phép đánh cổ của vi kỳ Trung Quốc, trắng đi trước đen đi sau ngược lại với phép đánh sau này của hậu thế.

Hoàng Mi tăng kế đến đặt tại Bình Vị lục tam một quân, người áo xanh bèn đi một nước nơi chỗ cửu tam. Lúc đầu hai người đi rất nhanh, nhà sư không tỏ ra kém sút chút nào, quả có mất một ngón chân để đi trước một nước kể cũng đáng.

Đi đến nước thứ mười bảy mười tám, hai bên cáng lúc càng gay go, tranh nhau thật kịch liệt, kình lực trên tay cũng mỗi lúc một tiêu hao, một mặt suy nghĩ mong thắng, một mặt vận khí tăng gia kình lực thành thử càng lúc càng chậm.

Người đệ tử thứ hai của Hoàng Mi tăng Phá Sân cũng là một tay cờ khá thấy sư phụ dùng đoản binh đấu với người áo xanh hai bên toàn những thế kỳ lạ không khỏi bội phục ngầm. Đi đến nước thứ hai mươi bốn, người áo xanh đột nhiên tung ra kỳ binh, bàn cờ đột nhiên biến đổi nếu như nhà sư không đối phó kịp thì góc bên phải thể nào cũng nguy còn như nếu cố giữ thì lợi thế đi trước không còn nữa.

Hoàng Mi tăng suy nghĩ một hồi lâu chưa biết phải làm thế nào bỗng nghe từ bên trong thạch thất có tiếng truyền ra:

- Tấn công vào Khứ Vị thì không bị mất thế đi trước.

Thì ra Đoàn Dự từ bé đã ham đánh cờ lúc này thấy hai bên đến chỗ gay go nên buột miệng "gà" cho Hoàng Mi tăng. Người đời thường nói: "Cờ ngoài bài trong", người đứng xem thường sáng nước hơn người đang đánh, kỳ lực của Đoàn Dự vốn đã cao hơn Hoàng Mi tăng lại đứng ngoài nên nghĩ ngay ra được những nước lạ. Hoàng Mi tăng đáp:

- Lão tăng vốn cũng đã có ý đó rồi nhưng chưa đặt xuống được, thí chủ nói thế khiến giải quyết được nghi nan trong lòng.

Bèn đặt nơi Khứ Vị ngay chỗ thất tam một quân. Trong phép đánh cờ ngày xưa của Trung Quốc, Bình Thượng Khứ Nhập là bốn chỗ, Khứ Vị ở góc trên bên phải.

Người áo xanh lạnh lùng đọc:

Đứng ngoài chẳng nói là quân tử,

Tự mình suy tính mới trượng phu.

Đoàn Dự kêu lên:

- Ngươi đem ta nhốt ở nơi đây mà còn dám nói gì chân quân tử hay chăng?

Hoàng Mi tăng mỉm cười:

- Ta là đại hòa thượng chứ nào phải đại trượng phu đâu?

Người áo xanh cười khẩy:

- Vô sỉ thật, vô sỉ thật.

Y suy nghĩ một hồi rồi cũng đi một quân nơi Khứ Vị. Đi được thêm mấy nước, nhà sư già lại gặp thế bí, Phá Sân hòa thượng nóng ruột không nghe Đoàn Dự nhắc gì vội chạy lại trước thạch thất hỏi:

- Nước cờ này phải đi thế nào đây?

Đoàn Dự đáp:

- Ta đã tính ra đến bảy nước rồi nhưng nếu nói ra e rằng kẻ địch nghe được thì không còn hiệu nghiệm nữa thành thử cứ ngần ngừ không muốn nhắc.

Phá Sân giơ bàn tay ra, tay trái viết lên hai chữ:

- Xin viết ra.

Nói xong đưa bàn tai vào trong cái khe, miệng nói:

- Nếu đã thế thì thôi đành chịu vậy.

Y biết người áo xanh nội công thâm hậu dù cho Đoàn Dự có ghé tai nói nhỏ cũng có thể bị y nghe được. Đoàn Dự thấy kế này hay lắm, liều đưa ngón tay viết vào bàn tay y bảy nước đi nói:

- Tôn sư kỳ lực cao minh ắt sẽ có nước hay, chẳng cần tại hạ chỉ điểm.

Phá Sân suy nghĩ một chút thấy bảy nước cờ đó quả thật là cao nên quay trở lại bên sư phụ, đưa tay viết lên lưng ông. Tăng bào của y che hết bàn tay, nên người áo xanh không sao nhìn thấy y giở trò láu cá. Hoàng Mi tăng ngẫm nghĩ một hồi rồi cứ theo đúng thế mà đi.

Người áo xanh hừ một tiếng nói:

- Cái này là có người ngoài mách nước, cứ như sức cờ của đại sư xem ra không thể tới mức này được.

Nhà sư cười:

- Đánh cờ chẳng qua là trò đấu trí, trong cái giả có cái thật, người giỏi thì làm như không giỏi. Nếu như kỳ lực của lão tăng thí chủ biết hết cả rồi thì còn đánh cờ làm gì?

Người áo xanh đáp:

- Chơi trò giảo hoạt ném đá dấu tay.

Y thấy Phá Sân hòa thượng chạy qua chạy lại, lại dấu tay ở sau lưng nhà sư già, ắt hẳn có điều gì quái đản nhưng vì chú tâm đánh cờ thành ra chuyện chung quanh không nhìn rõ được.

Hoàng Mi tăng theo đúng lời Đoàn Dự chỉ, cứ thế mà đi đủ bảy nước. Sáu nước sau không cần phải suy nghĩ gì cả, chỉ chuyên chú vận công nên những cái lỗ do dùi đục vào đá xanh vừa sâu vừa tròn, đủ biết thần khí đầy đủ, nội lực dạt dào không dứt.

Người áo xanh thấy những nước cờ càng sau càng ghê gớm, nước nào cũng phải suy nghĩ cách chống đỡ nên nét đục của thiết trượng nông sâu không đều. Đến khi Hoàng Mi tăng đi xong nước thứ sáu rồi, người áo xanh xuất thần suy nghĩ một hồi đột nhiên đặt một quân vào Nhập Vị.

Quân cờ đó đi thật bất ngờ không liên quan gì đến lối tính toán của Đoàn Dự, Hoàng Mi tăng ngạc nhiên nghĩ thầm: "Bảy nước cờ của Đoàn công tử thật là tinh vi đi đến nước thứ bảy thì ta từ đi trước một nước đã thành hơn tới hai nước. Thế nhưng vào tình thế này thì ta không đi nước này được nữa rồi, chẳng hóa ra bao nhiêu nước trước thành công cốc hay sao?". Thì ra người áo xanh thấy tình hình bất lợi ứng phó cách nào xem ra cũng không xong thành ra không thèm lý đến nữa nên bỏ luôn thế thủ tiến lên công ngay một quân, cái đó chính là "lấy cái không để chống với cái có" quả thực là một nước lợi hại.

Hoàng Mi tăng nhíu mày không nghĩ ra được cách nào cho ổn. Phá Sân thấy thế cờ đột nhiên biến đổi khiến sư phụ bị lâm vào thế bí vội chạy lại thạch thất. Đoàn Dự cũng đã nghĩ chín liền viết cho y sáu nước cờ rõ ràng từng nước một. Phá Sân chạy lại chỗ Hoàng Mi tăng đưa tay viết lên lưng sư phụ. Người áo xanh đã nổi danh là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân lẽ nào lại dung cho y liên tiếp phá bĩnh mình? Thiết trượng từ tay trái liền tung ra hư điểm vào vai Phá Sân, quát lên:

- Đứa hậu sinh kia, mau đứng lại!

Thiết trượng điểm ra phát xuất tiếng vù vù. Hoàng Mi tăng thấy thế biết là đệ tử mình không sao chống đỡ nổi, thể nào cũng trọng thương lập tức giơ tả chưởng chộp vào đầu trượng. Đầu trượng của người áo xanh liền rung động điểm luôn vào huyệt đạo dưới vú nhà sư. Hoàng Mi tăng biết trảo thành cương đao chém xuống đầu gậy, thiết trượng liền biến chiêu. Chỉ trong khoảnh khắc hai người đã trao đổi bảy tám thức.

Hoàng Mi tăng nhận thấy cánh tay mình ngắn còn thiết trượng của địch dài, nếu tiếp tục hóa ra chỉ thủ mà không công, chỉ thua chứ không có đường thắng nên vừa thấy trượng điểm tới liền tung ra một chỉ nhắm ngay đầu trượng đâm vào. Người áo xanh không rút về tránh, đầu trượng và ngón tay đụng nhau, hai người cùng dùng nội lực để đấu, lập tức cả hai bên đều đứng sững lại.

Người áo xanh nói:

- Đại sư nước cờ kia nhùng nhằng không đi, bàn cờ này chịu thua rồi phải không?

Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:

- Các hạ là tiền bối cao nhân, sao lại ra tay đánh trộm đệ tử của ta? Như thế có mất thân phận lắm chăng?

Tay phải cầm chiếu dùi sắt khắc một vòng tròn nhỏ dưới phiến đá. Người áo xanh cũng không nghĩ ngợi, tiện tay cũng đặt một quân. Từ đó trở đi, hai người tay thì vận nội lực không cách nào có thể lơi được, nhưng thế cờ mỗi lúc một gay go, hai bên tranh giành từng chút một.

Năm năm trước đây, Hoàng Mi tăng vì bách tính nước Đại Lý cầu xin Bảo Định Đế bãi bỏ thuế muối, đến tận bây giờ nhà vua mới bằng lòng, hai người hiểu ý nhau nên ông nhất định ra tay cứu Đoàn Dự. Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: "Ta dẫu có bỏ mạng cũng không thành vấn đề, nhưng nếu không cứu được Đoàn Dự ra thì còn ra gì với Chính Minh hiền đệ nữa?".

Kẻ tu tập võ học nội công cần nhất là không được có một chút tạp niệm nào, cái đó gọi là "phản chiếu không minh, vật ngã lưỡng vong " nhưng đánh cờ thì lại luôn luôn muốn hơn người một bước, trên bàn cờ ba trăm sáu mươi mốt điểm, điểm nào cũng phải nghĩ tới, quả đúng là đến một sợi tóc cũng không thể bỏ qua thì mới tính toán cho đến nơi đến chốn được.

Hai món đó gần như tương phản chống chỏi lẫn nhau. Hoàng Mi tăng công phu thiền định tuy cao thâm, nước cờ lại không cao bằng đối phương, chú tâm vào việc vận nội lực kháng địch thì lại sao nhãng nước cờ, còn như tập trung nghĩ nước cờ thì nội lực lại giảm đi trở thành núng thế, thấy cục diện hôm nay hung hiểm lạ thường nên quyết tâm lấy cái chết báo đền người tri kỷ nên không còn nghĩ gì đến việc an nguy của mình nữa. Cổ nhân có nói: "quân đang nguy ngập thì dễ thắng", thế nhưng Hoàng Mi tăng lúc này nguy thì có nguy còn chuyện tất thắng thì chưa thấy đâu cả.

*

* *

Tam Công nước Đại Lý là Tư Đồ Hoa Hách Cấn, Tư Mã Phạm Hoa và Tư Không Ba Thiên Thạch tất lãnh ba chục thuộc hạ biết võ công, đem gỗ, xẻng, đèn treo các món tiến vào khu rừng rậm trong Vạn Kiếp Cốc, chọn địa thế rồi đào đường hầm vào. Ba mươi ba người đào cả đêm đã được một con đường hầm dài đến vài chục trượng. Qua hôm sau lại đào thêm nửa ngày nữa đến xế trưa, tính toán ra không còn cách thạch thất bao xa. Hoa Hách Cấn bảo bộ thuộc lui lại phía sau để chuyển đất, chỉ còn ba người thay phiên đào. Ba người biết rằng thái tử Diên Khánh võ công rất cao cường nên khi đào chỉ nhè nhẹ ấn xẻng xuống không dám để phát ra chút thanh âm nào. Chính vì thế mà tiến triển rất chậm. Ba người có biết đâu lúc này người áo xanh đang hết sức chú tâm đánh cờ với Hoàng Mi tăng, lại đấu nội lực làm gì còn để ý đến âm thanh dưới đất.

Đào đến khoảng giờ Thân, tính ra đã đến nơi thạch thất Đoàn Dự đang bị cầm tù. Nơi này và nơi Diên Khánh đang ngồi cách nhau chỉ độ một trượng nên lại càng hết sức cẩn thận không để lộ chút thanh âm nào. Hoa Hách Cấn bỏ xẻng xuống, dùng mười ngón tay moi đất, thi triển Hổ Trảo Công, mười ngón tay chẳng khác nào mười cái móng sắt, móc lên từng tảng đất lớn. Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch hai người ở sau chuyền những tảng đất y đào ra ngoài. Lúc này Hoa Hách Cấn không còn đào ngang nữa mà đã đào dọc từ dưới lên trên. Công trình đã gần xong, chỉ giây lát là biết có cứu được Đoàn Dự không, ba người không khỏi tim đập thình thịch.

Việc đào đất từ dưới lên tốn chẳng bao nhiêu công sức, đất vừa gỡ ra là rơi ngay xuống, Hoa Hách Cấn đã đứng thẳng lên được rồi ra tay càng nhanh nhẹn, cứ đào một lát lại lắng tai nghe ngóng xem bên trên có tiếng gì không. Đào như thế chừng tàn hai nén hương, xem ra chỉ còn cách mặt đất chừng một thước, Hoa Hách Cấn tay liềm chậm lại, nhẹ nhàng gạt đất ra sau cùng đụng phải một phản gỗ, trong bụng mừng thầm: "Dưới sàn thạch thất có lát ván xem ra càng tiện cho mình".

Y tập trung sức vào ngón tay, vạch vào tấm phản một hình vuông mỗi bề chừng hai thước, tay giữ tấm ván vừa buông ra một miếng gỗ vuông lập tức rơi xuống thành một cái miệng hầm đủ cho một người chui lọt. Hoa Hách Cấn đưa cái xẻng lên múa múa một vòng để phòng có người đột kích, bỗng nghe có tiếng đàn bà hoảng hốt kêu "A" lên. Hoa Hách Cấn nói nhỏ:

- Mộc cô nương chớ kêu, đây là phe bạn đến cứu hai người đây.

Y tung mình vọt từ dưới hầm lên. Vừa đưa mắt nhìn quanh thì lại càng hoảng hơn, nơi đây nào có phải thạch thất đâu mà là một căn phòng sạch sẽ đồ đạc tươm tất, đầy những kệ để đủ các loại bình lớn bé, một thiếu nữ mặt mày kinh hoàng, nép vào một góc.

Thạch thất kia toàn do Bảo Định Đế nói cho Ba Thiên Thạch nghe, Ba Thiên Thạch nói lại cho y nghe, y sợ mưu kế bại lộ nên đâu có dám đến tận nơi quan sát. Thành thử Hoa Hách Cấn tính toán sai, cái sai một li kia tuy không phải đi một dặm nhưng cũng không đúng chỗ.

Nơi y đào đến đúng ngay nhà Chung Vạn Cừu, thiếu nữ kia là Chung Linh, nàng đang ở trong phòng phụ thân lục lọi tìm giải dược để đi cứu Đoàn Dự, ngờ đâu từ dưới đất lại có một người đàn ông chui lên làm sao nàng không khỏi sợ đến mất cả hồn vía?

Ý nghĩ của Hoa Hách Cấn hiện ra thật nhanh: "Hóa ra mình đào lầm chỗ rồi, phải đào đường khác. Có điều tung tích đã lộ, nếu giết cô gái này để diệt khẩu, ngươi trong Vạn Kiếp Cốc thấy xác cô ta, lập tức sẽ tra xét mọi nơi, mình đào chưa tới thạch thất thì địa đạo này đã bị phát giác. Thôi đành tạm thời bắt cô ta xuống dưới hầm, nếu người nào đi tìm ắt sẽ ra ngoài sơn cốc".

Ngay lúc đó bỗng nghe thấy phòng ngoài có tiếng chân người đi đến. Hoa Hách Cấn đưa tay xua xua Chung Linh ý bảo cô ta không được lên tiếng, xoay người lại chân trái thò vào miệng hầm, tưởng chừng như định chui trở xuống, đột nhiên lật người nhảy vọt lên, tay trái đưa ra bịt ngay miệng cô gái, tay phải vòng ra ôm ngay lưng cô ta kéo lại gần cửa hầm tống xuống bên dưới. Phạm Hoa giơ tay đỡ lấy, bốc ngay một nắm đất nhét vào mồm Chung Linh. Hoa Hách Cấn nhảy trở vào hầm, cầm miếng gỗ vừa cắt ra để trở lại chỗ cũ rồi ghé tai vào khe nghe ngóng tiếng động bên trên.

Chỉ thấy hai người đi vào trong phòng, có tiếng đàn ông nói:

- Hẳn là nàng đối với y "tình cũ nghĩa xưa" vẫn còn nên khi ta muốn cho họ Đoàn bại hoại thanh danh mới hết sức ngăn trở chứ gì?

Có tiếng đàn bà giận dữ đáp:

- Cái gì mà tình cũ nghĩa xưa? Ta đối với y nào có tình ý gì đâu?

Tiếng đàn ông nói:

- Thế thì hay lắm. Hay lắm!

Trong giọng nói đầy vẻ vui mừng. Người đàn bà nói:

- Có điều Mộc cô nương là con của sư tỉ ta, cũng là người bên mình, sao ông lại giở trò làm khó nàng ta như thế là sao?

Hoa Hách Cấn nghe đến đây, biết ngay đây là vợ chồng Chung cốc chủ, thấy họ bàn cãi với nhau có liên quan đến Đoàn Dự vội lắng tai nghe. Chung Vạn Cừu nói:

- Sư tỉ nàng toan len lén đến thả Đoàn Dự ra, may có Diệp Nhị Nương phát giác thành ra sư tỉ nàng bây giờ là kẻ địch của chúng ta, nàng còn lo cho con gái mụ ta làm gì? Phu nhân, khách tại đại sảnh toàn là những nhân vật thành danh trong võ lâm nước Đại Lý sao nàng chẳng coi ai ra gì, chỉ lườm họ một cái rồi bỏ xuống đây, chẳng ... chẳng hóa ra mình ... thiếu lễ độ quá hay sao?

Chung phu nhân hậm hực đáp:

- Ông mời bọn đó tới đây để làm gì? Những người đó với mình chẳng có giao tình gì lắm, liệu bọn họ có dám đắc tội với đương kim hoàng đế nước Đại Lý không?

Chung Vạn Cừu đáp:

- Ta nào có mời họ đến để tiếp tay đâu, nào có phải muốn họ chống đối tạo phản Đoàn Chính Minh? Cũng may là bọn họ đều ở trong thành Đại Lý nên ta tiện thể mời đến uống rượu, để cho mọi người làm chứng tận mắt thấy rõ con trai và con gái Đoàn Chính Thuần ở chung một phòng, dâm uế loạn luân chẳng khác gì loài cầm thú. Hôm nay những tân khách mình mời đến có cả mấy hào kiệt từ Trung Nguyên phương bắc. Sáng sớm mai bọn ta sẽ mở cửa thạch thất cho tất cả mọi người nhìn rõ ràng đức tính của truyền nhân Nhất Dương Chỉ họ Đoàn như thế nào, có phải thú vị lắm không? Thế có phải truyền khắp giang hồ hay sao?

Nói xong y cười sằng sặc ra chiều đắc ý lắm. Chung phu nhân hừ một tiếng nói:

- Hèn hạ, hèn hạ! Vô liêm sỉ, vô liêm sỉ!

Chung Vạn Cừu nói:

- Nàng chửi ai là hèn hạ vô liêm sỉ vậy?

Chung phu nhân đáp:

- Kẻ nào làm những việc hèn hạ vô liêm sỉ thì là đồ hèn hạ vô liêm sỉ, cần gì phải chửi đích danh những người đó.

Chung Vạn Cừu nói:

- Đúng rồi, tên ác đồ Đoàn Chính Thuần tính tình trăng gió tạo nhiều oan nghiệt, để đến nỗi con ruột mình với con gái gian dâm, thật quả là đồ hèn hạ vô liêm sỉ hết nước nói.

Chung phu nhân cười khẩy hai tiếng, không trả lời. Chung Vạn Cừu nói:

- Sao nàng lại cười khẩy? Thế không phải nàng chửi Đoàn Chính Thuần là hèn hạ vô liêm sỉ hay sao?

Chung phu nhân lại cười khẩy nói:

- Mình đánh không lại họ Đoàn, cả đời chui rúc ở trong sơn cốc không dám thò đầu ra thì cũng còn được, ấy gọi là biết xấu hổ cũng đã gần được đức dũng , cũng khá gọi là làm người. Ngờ đâu lại đi dùng thủ đoạn dàn dựng con trai con gái người ta, thiên hạ anh hùng cười đâu có cười y mà sẽ cười Chung Vạn Cừu.

Chung Vạn Cừu nhảy nhổm lên, giận dữ hỏi lại:

- Nàng ... nàng chửi ta là hèn hạ vô liêm sỉ chăng?

Chung phu nhân chảy nước mắt, nghẹn ngào đáp:

- Có ngờ đâu tôi lấy được ông chồng, gửi gấm chuyện trăm năm, lại là ... lại là một người như thế. Sao ... sao tôi khổ thế này?

Chung Vạn Cừu vừa thấy vợ khóc liền cuống quít chân tay nói:

- Được rồi, được rồi! Nàng muốn chửi ta thì cứ chửi cho thỏa thích.

Y đi qua đi lại trong phòng, tính nói vài câu xin lỗi vợ nhưng nhất thời không nghĩ ra cách nào, chỉ nói:

- Cái đó có phải chủ ý ta đâu! Đoàn Dự là do Nam Hải Ngạc Thần đem về, Mộc Uyển Thanh thì do Ác Quán Mãn Doanh bắt giữ, còn Âm Dương Hòa Hợp Tán cũng nào phải của ta? Ta làm gì có loại dược vật hèn hạ xấu xa đó?

Lúc này y chỉ nghĩ được chuyện đổ trách nhiệm qua người khác, Chung phu nhân cười khẩy:

- Nếu như ông biết được thế là hèn hạ xấu xa thì cũng tốt rồi. Nếu quả ông không tán thành chủ ý đó sao không thả Mộc Uyển Thanh ra đi?

Chung Vạn Cừu nói:

- Đâu có được, đâu có được. Nếu thả Mộc Uyển Thanh ra, một mình tên tiểu quỉ Đoàn Dự thì còn có làm được cái trò gì nữa?

Chung phu nhân cười gằn:

- Được rồi, ông đã hèn hạ vô liêm sỉ, tôi cũng sẽ làm trò hèn hạ vô liêm sỉ cho ông thấy.

Chung Vạn Cừu kinh hãi quá vội hỏi rối rít:

- Nàng ... nàng ... nàng làm cái trò gì thế?

Chung Vạn Cừu run run hỏi:

- Nàng ... nàng lại định cùng với Đoàn Chính Thuần ... tên ác tặc Đoàn Chính Thuần tư thông ư?

Chung phu nhân giận dữ hỏi lại:

- Cái gì mà bảo rằng lại định là sao?

Chung Vạn Cừu vội vàng cười làm lành:

- Phu nhân, nàng đừng giận. Ta nói sai, nàng trước nay đâu có ... đâu có đi lại gì với y. Nàng bảo sẽ làm điều hèn hạ vô liêm sỉ cho ta coi, chắc là ... chắc là để đùa chứ gì?

Chung phu nhân không trả lời. Chung Vạn Cừu trong lòng thảng thốt, liếc mắt nhìn thấy trong phòng chai lọ ngổn ngang liền nói:

- Ồ, Cái con bé Linh Nhi thật nghịch ngợm hết nước nói, mới tí tuổi đầu mà đã dám hỏi ta Âm Dương Hòa Hợp Tán là cái gì, không biết nó nghe được ở đâu, rồi vào đây lục lọi tùm lum.

Nói xong y tới bên giá thuốc xếp lại những bình, chân đạp lên miếng gỗ mới bị cắt đứt. Hoa Hách Cấn vội vận kình đỡ lên sợ y phát giác. Chung phu nhân nói:

- Linh Nhi đâu? Nó đi đâu rồi? Sao ông lại muốn đưa nó lên trên sảnh chào khách?

Chung Vạn Cừu cười nói:

- Chúng mình sinh được đứa con xinh đẹp như thế, sao không để cho bằng hữu được thấy qua?

Chung phu nhân đáp:

- Bộ ông muốn đem mỡ nhử mèo chăng? Tôi nhìn thấy đôi mắt hau háu của gã Vân Trung Hạc, nhìn Linh Nhi chăm chăm nhỏ nước dãi, ông phải coi chừng y đó.

Chung Vạn Cừu cười nói:

- Ta chỉ coi chừng có một mình nàng, người đẹp hoa nhường nguyệt thẹn như bà, ai mà chẳng thèm nhỏ dãi?

Chung phu nhân chép miệng gọi lớn:

- Linh Nhi! Linh Nhi!

Một con a hoàn chạy lên bẩm:

- Tiểu thư vừa mới ở đây mà.

Chung phu nhân gật đầu nói:

- Ngươi đi mời tiểu thư lên, ta có chuyện cần nói.

Chung Linh ở dưới hầm tất cả những gì cha mẹ nói với nhau nghe rõ từng câu từng chữ, khổ nỗi không có cách nào lên tiếng cầu cứu, trong bụng hoảng hốt, mồm bị nhét đầy đất thật là khó chịu. Chung Vạn Cừu nói:

- Nàng nghỉ một lát, ta ra ngoài tiếp khách.

Chung phu nhân lạnh lùng hỏi lại:

- Sao ông không nghỉ để tôi ra tiếp khách?

Chung Vạn Cừu đáp:

- Thôi cả hai vợ chồng cùng ra vậy.

Chung phu nhân nói:

- Thế khách muốn nhìn khuôn mặt hoa da phấn của tôi hay là muốn nhìn cái mặt ngựa của ông? Bao giờ đến lúc tôi nhìn cũng chán ngấy ông sẽ biết ngay nó thế nào!

Mấy hôm nay Chung Vạn Cừu thật là vô vị, dẫu nói gì ra cũng bị vợ cằn nhằn một chập, biết rằng nàng cùng Đoàn Chính Thuần hai người xa nhau lâu ngày nay gặp lại, gợi nhớ tình xưa nên trong lòng khó chịu. Trong bụng y tuy giận lắm nhưng nào có dám nói lại nửa câu, chỉ đành cười hì hì đi ra đại sảnh, vừa đi vừa nghĩ: "Không biết nàng làm cái gì mà hèn hạ vô liêm sỉ cho ta thấy đây? Nàng lại nói "đến lúc tôi nhìn cũng chán ngấy", như thế nghĩa là hiện giờ nàng chưa chán, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ sợ tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần ..."


1 Chim phượng làm tổ trên cây ngô đồng

2 Lời chú của Kim Dung: Mãi về sau tới đời Đoàn Trí Hưng tức Nhất Đăng đại sư vì tình thế phải chế ngự Âu Dương Phong nên mới phá lệ tổ tiên đem công phu này truyền cho Vương Trùng Dương và Ngư Tiều Canh Độc bốn đại đệ tử (xem Xạ Điêu Anh Hùng truyện)

3Hoàng Thái Đệ là người em nhưng được thừa kế ngôi vua. Trong sử quả có chép Bảo Định hoàng đế tại vị 15 năm rồi xuất gia nhường ngôi cho em là Đoàn Chính Thuần tức là Trung Tông hoàng đế. Trung Tông làm vua 12 năm rồi cũng đi tu. Nước ta vào thời kỳ này cũng có nhiều vị hoàng đế bỏ ngôi vào chùa tu nhất là đời Trần các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều trở thànhø những cao tăng thâm hiểu Phật pháp.

4Theo quan chế ngày xưa Tư Không, Tư Đồ, Tư Mã gọi là Tam Công. Tư Không coi về việc đất đai, lãnh thổ tức thượng thư Bộ Công. Tư Đồ trông coi về nhân dân, hành chánh nên còn gọi là Tướng Quốc (sau gọi là Thừa Tướng). Tư Mã coi về quân sự, binh bị sau gọi là thượng thư Bộ Binh. Ngoài ra còn một chức vụ nữa là Tư Khấu trông coi việc pháp luật (thượng thư Bộ Hình). Nếu đúng nguyên tắc thì việc công bố lệnh bãi bỏ thuế muối phải do quan Tư Đồ đảm trách mới phải.

5 Đây là cờ vây chứ không phải cờ tướng

6Bàng quan bất ngữ chân quân tử,

Tự tác chủ trương đại trượng phu.

7Giữ cho tâm thanh tịnh quên hết cả ta lẫn vật

8 tri sỉ cận hồ dũng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét