Xa xôi vạn dặm đường trường,
Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.
Anh hùng giữa cảnh núi non,
Can vân hào khí vẫn còn như xưa.
* * *
Tiêu Phong trong lúc ngàn cân treo trên sợi tóc thoát được hiểm nghèo như thế, kêu thầm "hú vía," ý niệm đầu tiên nghĩ đến là: "Con tiểu yêu nữ này tâm địa độc ác thật, dám dùng cách đó ám toán ta." Ông biết ám khí phái Tinh Tú thật là lợi hại, độc địa đến cực điểm, nếu như bị bắn trúng thì thật khó mà sống được, không khỏi tim đập thình thình.
Đến khi ông nhìn lại A Tử bị một chưởng đánh văng xa hơn chục trượng, đột nhiên thất kinh: "Chết rồi, chưởng đó cô ta làm sao chịu nổi? E rằng bị mình đánh chết rồi." Ông nhún một cái phóng mình nhảy tới, thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, máu từ hai bên khóe miệng ứa ra, mặt vàng khè như đồ hàng mã, lần này quả là ngừng thở thật rồi.
Tiêu Phong ngẩn ngơ nghĩ bụng: "Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại giết luôn cả cô em gái của nàng. Nàng... nàng khi sắp chết đã dặn ta lo lắng cho muội muội, ngờ đâu... ngờ đâu... ta lại đánh chết luôn cả nó." Tuy ý nghĩ đó chỉ vụt qua đầu nhưng bởi ông tâm thần hoảng hốt nên tưởng như trải qua một thời gian thật dài. Ông lắc đầu, vội vàng giơ chưởng đè vào sau lưng A Tử, đem chân khí nội lực hết sức truyền vào. Một lúc sau, thân hình A Tử hơi rung động, Tiêu Phong mừng quá gọi:
- A Tử, A Tử, em đừng chết, bằng giá nào ta cũng nhất định sẽ cứu em.
Thế nhưng A Tử chỉ cựa một cái rồi lại nằm yên. Tiêu Phong hết sức bồn chồn, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên mặt tuyết, nhè nhẹ đỡ A Tử lên, để ngồi trước mặt đưa song chưởng để vào sau lưng, đem chân lực từ từ truyền vào người cô gái. Ông biết rằng A Tử bị thương rất nặng, lúc này chỉ cốt sao giữ cho nàng còn thoi thóp, tạm thời không chết rồi tìm cách cứu chữa sau thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức chậm rãi. Độ chừng thời gian một bữa ăn, trên đầu ông tỏa ra những làn hơi trắng đủ biết đã dùng toàn lực rồi.
Cứ như thế liên tục hành công chừng nửa giờ A Tử mới hơi động đậy, rên khẽ lên một tiếng:
- Tỉ phu!
Tiêu Phong mừng quá, tiếp tục truyền vào nhưng không nói chuyện với nàng, thấy thân thể cô ta dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở nhè nhẹ. Tiêu Phong e ngại có chuyện không hay nên không dám ngừng chuyển nội lực, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn mặc dù mặt vẫn xanh mét không một chút máu. Ông liền bồng ngang nàng trên tay, rảo bước chạy đi.
Ông gia tăng cước bộ, cố sao vừa nhanh vừa ổn, tay trái vẫn để lên sau lưng A Tử, không ngừng chuyển chân khí vào. Chạy đến hơn một giờ mới đến một tiểu thị trấn, nơi đó không có khách điếm, đành phải tiếp tục đi về hướng bắc, chạy đến hơn hai chục dặm, mới tìm ra được một nhà trọ thật sơ sài. Khách điếm đó không có tiểu nhị, do chính chủ nhân tự hầu hạ khách hàng. Tiêu Phong bảo người chủ đem lại cho ông một bát cháo nóng, dùng thìa múc đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng chỉ uống được ba thìa, rồi lại ói ra cả, trong nước cháo có lẫn máu bầm.
Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương kỳ này xem ra khó mà trị được, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y nào có biết đang ở nơi nao, mà dẫu có ở gần bên, cũng chưa chắc đã làm được gì. Hôm trước A Châu bị thương không trực tiếp do chưởng lực của phương trượng chùa Thiếu Lâm mà đã nguy hiểm vạn phần, lại được bôi linh cao của Đàm Công Thái Hàng sơn, rồi được Tiết Thần Y cứu chữa, có thế mới khỏi. Tuy ông biết tính mạng A Tử khó mà bảo tồn nhưng không vì thế mà chịu bó tay, chỉ nghĩ: "Dù ta phải hết lòng hết sức, chân khí nội lực hao kiệt hoàn toàn cũng cố còn nước còn tát. Không phải ta muốn cứu cô ta mà chính là vì không muốn phụ lời trăn trối của A Châu."
Ông vẫn biết A Tử ra tay ám toán mình trước, trong hoàn cảnh đó, nếu không đánh chưởng đó ra, tính mạng ắt không còn. Người võ công cao cường như ông, mỗi khi gặp nguy đâu còn kịp suy nghĩ gì lập tức ra tay chống đỡ giải nạn. Ông bị bắt buộc phải đả thương A Tử, ví như A Châu có mặt nơi đây thì cũng không trách cứ gì được vì chính A Tử tự gây ra họa cho mình chứ không liên quan đến ai, có điều vì A Châu không biết nên ông cảm thấy có lỗi với nàng.
Đêm hôm đó ông không chợp mắt được chút nào, thâu đêm không ngừng truyền chân khí để duy trì tính mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu bị thương, chỉ khi nào hơi thở thoi thóp Tiêu Phong mới ra tay, còn hiện giờ bàn tay ông không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, nếu không sẽ lập tức chết ngay.
Tối hôm sau cũng y như thế. Tiêu Phong công lực tuy mạnh thật nhưng hai ngày hai đêm hao tốn hơi sức cũng mệt mỏi vô cùng. Hai vò rượu mà tiểu khách điếm trữ được đã bị ông uống sạch không còn một giọt, muốn bảo chủ quán đi mua thêm nhưng túi đã cạn.
Ông một ngày không ăn cơm cũng chẳng hề gì nhưng một buổi không có rượu thì thật khó chịu, lúc này trong bụng đang buồn bực lại càng cần có rượu cho tỉnh táo, nghĩ thầm: "Trên người A Tử ắt có mang theo tiền bạc."
Ông cởi cái bị của nàng ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ, vài đĩnh bạc lẻ. Ông lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy cái túi có một sợi dây vải màu tím, một đầu buộc vào ngang hông. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Gớm cô bé này cẩn thận quá, sợ cái túi bị rơi mất, không biết cái gì mà buộc dính chặt vào người thế này mới yên bụng." Ông cởi cái nút buộc vào lưng, cái nút đó tết thật kỹ, dùng một tay phải mất bao nhiêu công lao mới gỡ ra được. Cái dây vừa tuột ra dường như đầu kia còn có vật gì dấu trong quần.
Ông buông tay ra nghe cách một tiếng, vật đó rơi xuống sàn, chính là một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi xuống nhặt lên đặt trên bàn. Chiếc đỉnh đó điêu khắc cực kỳ tinh mỹ bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, trong thớ có thấp thoáng vân đỏ. Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, cảm thấy chán ghét nên chỉ liếc qua rồi không màng tới nữa, nghĩ thầm: "Tiểu cô nương này quả là giảo hoạt, mồm năm miệng mười bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh đã giao cho ta rồi, có ai ngờ vẫn dấu trong ống quần. Có lẽ đồng môn của nàng tưởng đã giao lại cho ta thật, hoặc giả không tiện tra xét đàn bà con gái nên trước sau không ai khám phá ra được. Ôi, hôm nay tính mạng nàng cũng chẳng giữ được, cái thứ thân ngoại chi vật này có làm gì?"
Ông bèn gọi chủ quán vào bảo y cầm lượng bạc đi mua rượu thịt, còn mình tiếp tục dùng nội lực bảo trì tính mạng cho A Tử. Đến sáng ngày thứ tư, ông không còn chịu đựng được nữa, chỉ còn nước hai tay nắm một bàn tay A Tử, ôm nàng vào lòng cho dựa lên người mình, đem nội lực truyền theo chưởng tâm, chỉ được một lát hai mắt không còn mở nổi, lơ mơ ngủ luôn.
Thế nhưng ông khắc khoải tính mạng A Tử nên chỉ chợp mắt một tí rồi lại choàng tỉnh, cũng may trong khi nằm ngủ, chân khí lưu động miễn sao lòng bàn tay không xa rời A Tử nên hơi thở của cô ta không bị đứt quãng.
Cứ như thế thêm hai ngày nữa, tuy A Tử miễn cưỡng không tắt hơi nhưng thương thế chẳng bớt chút nào, dẫu nằm chết bẹp trong tiểu điếm này cũng chẳng đi đến đâu? Thỉnh thoảng A Tử cũng mở được mắt nhưng thần thái lờ đờ, hiển nhiên không biết gì cả, cũng không nói năng được câu nào. Tiêu Phong hết sức suy nghĩ nhưng không tìm ra kế sách, nghĩ thầm: "Thôi đành ôm nàng lên đường, may ra còn có cơ hội chứ ở trong khách điếm này rồi cũng vô phương."
Ông bèn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng bỏ vào bọc, thấy cái đỉnh trên bàn nghĩ thầm: "Cái thứ đồ này chỉ dùng để hại người, chi bằng đập vỡ nó đi cho xong." Ông định giơ chưởng đánh xuống bỗng chợt nghĩ lại: "A Tử trăm đắng nghìn cay mới ăn trộm được cái vật này. Bây giờ xem ra thương thế nàng không thể nào chữa được, lúc sắp chết hồi quang phản chiếu, có thể tỉnh táo lại trong phút chốc, không chừng lại hỏi đến cái mộc đỉnh, lúc đó ta đem ra cho nàng xem để nàng an tâm mà chết còn hơn ôm hận xuống tuyền đài."
Ông bèn cầm cái đỉnh gỗ lên, vừa chạm phải cảm thấy dường như bên trong có cái gì cựa quậy, hết sức lạ lùng, chăm chú nhìn, mới hay chung quanh có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn nơi cổ đỉnh có đường ngấn, xem ra có thể tháo ra. Ông lấy ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh, dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay phía trên qua bên trái, quả nhiên chuyển động được. Xoay được mấy vòng, mở nắp nhìn vào trong không khỏi ngạc nhiên, lại thấy kinh khiếp. Thì ra bên trong có hai con độc trùng, một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau hết sức dữ dội.
Mấy hôm trước khi ông bỏ chiếc đỉnh trên bàn, trong đỉnh rõ ràng có gì đâu, xem ra con rết và con bò cạp này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong đoán chừng đây là phương pháp tìm bắt độc trùng độc vật của phái Tinh Tú nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất, lấy chân dẵm chết, sau đó đóng nắp lại, bỏ lại vào trong túi vải. Tiêu Phong tính toán tiền nong xong xuôi rồi, ôm A Tử lên xông gió đạp tuyết đi về hướng bắc.
Ông kết oán thù cực kỳ sâu xa với hào kiệt Trung Nguyên, đường đi càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng đầu nhân vật võ lâm. Ông không muốn giết người kết thêm thù oán, lại không muốn cải trang, thêm trên tay ôm A Tử nếu phải động thủ với người thực là bất tiện thành thử tránh đường lớn, chỉ tìm những đường mòn hẻo lánh ở chốn sơn dã mà đi nên suốt mấy trăm dặm vẫn bình an vô sự.
Hôm đó đến một thị trấn lớn, thấy một tiệm thuốc bên ngoài có treo bảng: "Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí," nghĩ bụng: "Địa phương nhỏ chắc không có danh y đâu nhưng mình cũng cứ vào thử xem thế nào." Ông liền ôm A Tử đi vào xin chữa trị.
Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại bắt mạch A Tử lần nữa, lại nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt cực kỳ khác lạ, đột nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong bực tức nói:
- Này thầy lang, ta nhờ ông chữa bệnh cho em gái ta chứ nào có nhờ thầy chữa cho ta đâu.
Vương Thông Trị lắc đầu nói:
- Ta xem ông cũng có bệnh, đầu óc khật khùng, tâm thần rối loạn đảo điên, cần phải chữa trị ngay đi.
Tiêu Phong đáp:
- Ta làm gì mà đầu óc khật khùng?
Vương Thông Trị đáp:
- Vị cô nương này mạch đã ngừng, vốn dĩ chết rồi, có điều thân thể chưa cứng đấy thôi. Ngươi ôm cô ta đi tìm thầy thuốc làm gì? Thế chẳng phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể sống lại, ngươi cũng chẳng nên quá thương tâm mà ôm xác lệnh muội, chi bằng mau mau đem chôn, thế cũng là xong.
Tiêu Phong dở khóc dở cười nhưng ngẫm lại lời ông lang này cũng có lý, đúng là A Tử chết rồi, chỉ còn nhờ chân khí của mình mà thoi thóp, thầy lang tầm thường làm sao biết được? Ông đứng lên quay người đi ra.
Bỗng thấy một người ăn mặc theo lối quản gia hấp tấp chạy vào tiệm thuốc giục giã:
- Mau lên! Mau lên! Cho loại lão sơn nhân sâm(26.1) tốt nhất. Lão thái gia nhà ta bị trúng phong, sắp tắt hơi đến nơi, cần nhân sâm để giữ cho khỏi chết.
Dược điếm chưởng quĩ vội đáp:
- Có đây! Có đây! Thượng hảo hạng lão sơn nhân sâm đây.
Tiêu Phong nghe nói "lão sơn nhân sâm để giữ cho khỏi chết" lập tức nhớ ra cũng từng nghe người bệnh nặng sắp tắt thở nếu cho uống mấy ngụm sâm thang sắc đặc thì có thể cầm hơi, sống thêm được một lúc, trối trăn vài câu, có điều không nghĩ tới để dùng cho A Tử. Gã chưởng quĩ lấy ra một cái hộp gỗ gụ, trịnh trọng mở nắp trong đó có ba củ sâm to bằng ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, bên ngoài nhăn nhúm càng quí nếu lại thành hình người, đủ cả đầu mình chân tay ấy là loại già dặn cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông chẳng có gì đặc biệt, gã quản gia lấy một củ lật đật đi ngay.
Tiêu Phong lấy đĩnh vàng ra, mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc giùm khách hàng, lập tức bảo nấu sâm thang đút cho A Tử uống mấy hớp. Lần này may quá nàng không nôn ra. Lại cho nàng uống thêm mấy ngụm nữa, Tiêu Phong cảm thấy mạch nhảy mạnh hơn, hơi thở cũng đều hòa được một chút, trong bụng không khỏi mừng thầm.
Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên cạnh, liên tiếp lắc đầu nói:
- Lão huynh, nhân sâm không phải dễ kiếm, phí phạm thế thật uổng. Nhân sâm cũng chẳng phải linh chi tiên thảo, nếu như cứu người chết sống lại được thì kẻ có tiền chắc sống đời đời.
Mấy hôm nay Tiêu Phong không hề rời xa A Tử được lấy một bước, trong lòng buồn bực đã lâu, nghe gã Vương Thông Trị đứng kế bên lèm bèm rặt giọng bàn ra, tức khí xông lên, vung tay toan đánh cho y một chưởng. Thế nhưng ông vừa cất tay thì cố nhịn: "Đánh bừa bãi kẻ không biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?" Ông bèn rụt tay về, ôm A Tử lên đi ra khỏi tiệm thuốc bắc, văng vẳng nghe Vương Thông Trị vẫn còn khinh khỉnh nói theo:
- Hán tử này quả là hồ đồ, ôm cái xác chết chạy ngược chạy xuôi, xem ra tính mạng y cũng chẳng được bao lâu.
Ông thầy lang có biết đâu mình vừa đến quỉ môn quan lại quay trở lại, nếu như Tiêu Phong tức giận đánh cho bõ tức thì dẫu có mười Vương Thông Trị cũng thành bất trị.
Tiêu Phong ra khỏi dược điếm rồi nghĩ thầm: "Nghe nói lão sơn nhân sâm chỉ có ở nơi cực lạnh trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó cầu may. Vẫn biết cứu sống A Tử quả là thiên nan vạn nan, nhưng giữ cho nàng sống thêm được ngày nào, A Châu ở trên trời có linh thiêng thì trong lòng cũng vui vẻ thêm được chừng nấy."
Nghĩ thế ông chuyển qua bên phải tìm đường đi về phía đông bắc. Trên đường đi mỗi khi gặp tiệm thuốc liền đi vào mua nhân sâm, đến sau tiền bạc tiêu hết, chẳng ngại ngùng gì vào lấy không, vài tên phổ ky(26.2) làm gì ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng có thể mở mắt ra, kêu khẽ: "Tỉ phu!" đến tối cũng ngủ được vài giờ không cần tiếp chân khí mà vẫn tự mình thoi thóp được. Cứ như thế càng đi càng lạnh, sau cùng Tiêu Phong cũng bế A Tử đến được núi Trường Bạch. Tuy nói là trong dãy Trường Bạch có nhiều nhân sâm nhưng nếu không phải là người chuyên môn đã quen thuộc địa thế, trong nghề sành sỏi lâu năm, thì dẫu có một năm sáu tháng cũng chưa chắc tìm ra một củ. Tiêu Phong tiếp tục lên hướng bắc, người đi đường càng lúc càng thưa, đến sau chung quanh chỉ là rừng sâu cỏ dày, núi cao đồi tuyết, luôn mấy ngày cũng không gặp một ai, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm: "Chết rồi! Khắp nơi chỗ nào cũng băng tuyết, làm thế nào mà tìm được sâm? Chi bằng trở về nơi nào có buôn bán, có tiền thì mua, không tiền thì cướp." Nghĩ thế ông ôm A Tử tìm đường quay trở về.
Khi đó khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng cao mấy thước thật là khó đi, nếu ông không phải là người võ công trác tuyệt thì dù không chết cóng cũng bị sa lầy vào trong tuyết trắng chẳng thoát ra được.
Đi đến ngày thứ ba, trời u ám, xem ra bão tuyết đang kéo đến, đưa mắt trái phải trước sau chỗ nào cũng trắng xóa, trên mặt đất không thấy một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong trong bụng hoang mang, tựa hồ đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến chỉ có tiếng gió rít thổi ù ù bên tai.
Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy bận nhảy lên trên cây cao nhìn bốn bề, chung quanh chỉ toàn cây cối rậm rạp tuyết phủ trắng xóa nào có biết đâu là đông, là tây, là nam, là bắc? Ông sợ A Tử bị lạnh, cởi trường bao ra bọc nàng lại ôm vào lòng. Ông tuy trước nay không sợ trời sợ đất gì cả nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn lại một thân một mình, không khỏi chột dạ. Nếu quả như chỉ mình ông thôi thì cũng đành, biển tuyết tuy mênh mông nhưng cũng không đến nỗi tuyệt vọng, thế nhưng khỗ nỗi trong tay lại ôm một nàng A Tử đang mê man, sống dở chết dở.
Đã ba hôm nay ông không ăn uống gì, tính chuyện bắt một con gà rừng hay con thỏ dại chi đó nhưng cũng không thấy nghĩ thầm: "Mình cứ chạy lung tung thế này chẳng đi đến đâu, chi bằng ngủ lại một đêm trong rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao sẽ có thể tìm ra phương hướng."
Ông kiếm một nơi khuất gió, kiếm ít củi khô, đốt một đống lửa. Lửa cháy to rồi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp nhưng bụng đói đến sôi sùng sục, nhìn dưới gốc cây có những cây nấm dại màu trắng xám xem chừng không độc liền hái nướng lên ăn đỡ dạ.
Ăn đến hơn hai chục tai nấm rồi tinh thần cũng hơi phấn chấn, bèn đỡ A Tử nằm dựa vào ngực mình để sưởi. Đang toan nhắm mắt ngủ bỗng nghe một tiếng "à uôm" thật lớn, chính là tiếng hổ gầm. Tiêu Phong mừng quá: "Xem ra có thú lớn đến đây, mình có thịt hổ ăn rồi."
Ông lắng tai nghe, thấy có hai con hổ từ tuyết địa chạy tới, kế đó có tiếng lao xao, dường như có người đang đuổi theo. Ông nghe thấy tiếng người thật mừng hết cỡ, lắng tai nghe thấy hai con dã thú chạy về hướng tây, lập tức đặt A Tử xuống bên cạnh đống lửa, thi triển khinh công, đi tắt chặn đầu chúng lại. Khi đó tuyết đổ đang nhiều, gió bấc thổi mạnh, khiến cho khắp trời chỗ nào cũng mù mịt.
Chỉ mới chạy được độ mươi trượng đã thấy trên mặt tuyết hai con hổ vằn vện đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán lưng khoác da thú, tay cầm đinh ba đang rượt nà theo. Hai con cọp đó thật lớn, chạy được một quãng thì một con gầm lên quay phắt lại chồm vào người thợ săn. Hán tử đó liền giơ chĩa lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh thú đâm tới. Con cọp đó hết sức nhanh nhẹn, hất đầu qua tránh được thiết xoa, cùng lúc đó con hổ kia cũng xông tới vồ.
Người thợ săn lập tức đảo đinh ba lại, nghe bịch một tiếng đã dùng cán chĩa quật ngang bụng con vật. Con vật bị đau, rống lên một tiếng, cụp đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng không màng lập tức chạy theo.
Tiêu Phong thấy người thợ săn thân thể cao to, cánh tay thật khỏe nhưng không biết võ công, chỉ quen với tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y đã để thiết xoa đón trước, chính là cách liệu địch cơ tiên nhưng muốn đâm chết hai con cọp quả không phải dễ.
Tiêu Phong kêu lên:
- Lão huynh, ta đến giúp ngươi đây.
Ông từ trong phóng ra chặn đường hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu Phong xông ra, hết sức kinh hãi, lớn tiếng la lối om sòm, không phải Hán ngữ. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì cũng chẳng để ý, giơ tay phải lên, nhắm ngay đầu một con cọp đánh cho một chưởng, bình một tiếng, con vật tung lên, lộn tùng phèo, kêu rống lên rồi phóng thẳng vào ông.
Chưởng mới rồi Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành lực, dù là kẻ võ công cao cường, nếu trúng đòn thì thể nào cũng vỡ đầu nhưng mãnh hổ sọ cứng xương thô, chưởng lực liệt thạch khai bi kia cũng chỉ khiến nó lộn đi một vòng rồi lại xông vào. Tiêu Phong khen thầm: "Giỏi nhỉ, mi quả là gớm thật!" nghiêng người né qua, tay phải từ trên chém xéo xuống, nghe bụp một tiếng, trúng ngay ngang sườn con vật.
Cú chém đó ông tăng thêm một thành công lực, con mãnh hổ loạng quạng mấy bước, rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp trúng ngay đuôi con cọp, tay trái cũng phụ vào, quát lên một tiếng, thi triển thần lực kéo ghì con hổ lại. Con cọp đang phóng về phía trước bị Tiêu Phong giữ ghịt, hai luồng lực đạo chõi nhau khiến con vật bị hất tung lên.
Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong quăng con cọp lên kinh ngạc không sao kể xiết. Con cọp ở trên không nhe răng, giương vuốt, từ cao vồ xuống. Tiêu Phong lại quát lên một tiếng, song chưởng cùng tung ra, nghe hự một tiếng, trúng ngay bụng dưới con vật. Bụng hổ là nơi thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng đó chính là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp liền vỡ nát, lăn lộn một hồi trên mặt tuyết rồi chết tươi.
Người thợ săn trong lòng hết sức kính phục, người ta tay không đánh cọp, mình dùng đinh ba giết một con không xong, chẳng khiến người ta coi thường lắm ru? Nghĩ thế y bèn đâm trái một cái, đâm phải một cái, hết nhát nọ đến nhát kia nhằm ngay mình hổ mà nhử. Con cọp bị trúng mấy nhát, hung tính nổi lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.
Gã thợ săn nghiêng qua tránh được, đinh ba đảo ngang, nghe phụp một tiếng đã đâm ngay vào cổ con thú, hai tay đẩy một cái, con vật rống lên thảm thiết ngã lăn ra đất. Người đó vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp xuống mặt tuyết. Chỉ nghe tiếng soạt soạt liên tiếp, quần áo bằng da thú trên người y đã bục ra một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn cuộn trông thật hùng vĩ.
Tiêu Phong nhìn thấy khen thầm: "Hảo hán tử!" Con hổ nằm chổng bốn chân lên trời, móng vuốt cào cấu vùng vẫy, chỉ một lát không còn động đậy gì nữa. Người thợ săn rút chiếc đinh ba ra, cười lên ha hả, quay người lại, nhìn Tiêu Phong giơ lên một ngón tay cái, nói xí xố mấy câu. Tiêu Phong tuy không hiểu y nói gì nhưng nhìn thần tình của y cũng biết đang khen ngợi mình quả là anh hùng, bèn bắt chước bộ dạng của y, cũng giơ hai ngón tay cái lên nói:
- Anh hùng! Anh hùng!
Người đó mừng lắm, chỉ chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả!
Tiêu Phong nghĩ chắc đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Tiêu Phong!
Người kia hỏi lại:
- Tiêu Phong? Khất Đan?
Tiêu Phong gật đầu nói:
- Khất Đan! Ngươi?
Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!
Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao Ly có một giống người tên gọi Nữ Chân, tộc nhân dũng mãnh thiện chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả này là người thuộc giống này.(26.3) Tuy ngôn ngữ không thông nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng gặp được một đồng bạn cũng vui mừng khôn xiết, lập tức hoa chân múa tay cho y biết là còn một người nữa, sau đó vác con hổ chết lên đi lại phía A Tử đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y lên đi theo ở đằng sau.
Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại cắt cổ cho máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt được nhưng vẫn biết uống, đến trên chục ngụm mới thôi. Tiêu Phong rất mừng, cắt hai đùi nướng trên lửa. A Cốt Đả thấy ông tay không xé con vật như người ta xé con gà, thủ kình như thế y chưa từng thấy, chưa từng nghe, ngơ ngẩn nhìn hai cánh tay ông một hồi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cổ tay, cánh tay ông, nét mặt đầy vẻ kính phục.
Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn đến no. A Cốt Đả mới ra hiệu hỏi ông đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng chỉ trỏ ý nói đi tìm nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc lối. A Cốt Đả cười ha hả, lại múa may lung tung nói là muốn có nhân sâm thì rất dễ, đi theo y bao nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả giơ tay lên khen:
- Khỏe thật!
Địa thế vùng này A Cốt Đả rất quen thuộc tuy trời gió bão lớn nhưng không lầm lẫn chút nào. Hai người đi đến chiều tối thì ngủ lại trong rừng, đến sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa ngày thứ ba, Tiêu Phong thấy trên mặt tuyết rất nhiều dấu chân. A Cốt Đả liên tiếp ra hiệu nói là đã đến gần tộc nhân rồi. Quả nhiên đi qua hai cái thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm tấm đến mấy trăm căn lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, từ trong doanh trướng lập tức có người ra đón.
Tiêu Phong theo A Cốt Đả tới gần, thấy trước mỗi căn lền đều có một đống lửa, vô khối đàn bà ngồi đầy chung quanh kẻ thì may da thú, người thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ngay chính giữa, vén màn đi vào. Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn, đang uống rượu, vừa thấy mặt A Cốt Đả đã lớn tiếng reo hò ầm ỹ. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói huyên thuyên, nhìn bộ dạng đoán chừng đang kể lại chuyện ông tay không đánh chết hổ.
Mọi người liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên, không ngớt tấm tắc khen ngợi. Còn đang xôn xao, một gã người Hán ăn mặc theo lối con buôn bước vào, quay sang hỏi Tiêu Phong:
- Vị gia đài này có nói được tiếng Hán không?
Tiêu Phong mừng rỡ đáp:
- Được chứ! Được chứ!
Hỏi ra mới biết căn lều này là doanh trướng của tộc trưởng Nữ Chân. Người ngồi giữa có râu đen là trưởng tộc Hòa Lý Bố. Ông ta có cả thảy mười một người con, người nào cũng anh hùng, A Cốt Đả là con trai thứ. Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, năm nào đến mùa đông cũng tới đây thu mua nhân sâm, da thú đến đầu mùa xuân mới quay về. Hứa Trác Thành biết nói tiếng Nữ Chân nên làm thông dịch cho Tiêu Phong.
Người Nữ Chân với người Khất Đan thường thường vẫn đánh lẫn nhau nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả là người lanh lợi giỏi giang, rất được phụ thân yêu thích, người trong bộ lạc cũng kính trọng y, nay luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên không ai hiềm rằng ông là người Khất Đan mà đều đối xử như khách quí.
A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở, Tiêu Phong chối từ mấy câu nhưng A Cốt Đả nhất định không chịu. Tiêu Phong thấy y thành thực nên đành chấp nhận.
Tối hôm đó người Nữ Chân mở một đại tiệc để đón chào Tiêu Phong, thịt hai con mãnh hổ đương nhiên trở thành món ăn trân quí. Đã nửa tháng nay môi Tiêu Phong không được chạm đến một giọt rượu, bây giờ người Nữ Chân đem túi da này đến túi da khác, đến đâu hết đó, Tiêu Phong được một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị cay sè cực mạnh, người thường chỉ cần nửa bao đã say nhưng Tiêu Phong uống luôn một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Người Nữ Chân xưa nay vẫn xem lượng rượu uống nhiều ít mà coi là hảo hán, chuyện ông tay không đánh cọp chỉ nghe kể chưa thấy tận mắt nhưng cách uống rượu thế này, mười hảo hán Nữ Chân đến uống thi mà chẳng một ai hơn khiến tất cả đều kính phục.
Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân nể sợ ông nên cũng hết sức chiều đãi. Tiêu Phong nhàn rỗi không việc gì làm, ban ngày cùng với A Cốt Đả đi săn, đến tối về lại học tiếng Nữ Chân với Hứa Trác Thành. Học được bốn năm thành rồi, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không lẽ không biết nói tiếng Khất Đan xem ra thật không phải nên lại nhờ y dạy. Hứa Trác Thành đi lại nhiều nơi, chẳng nói tiếng Nữ Chân mà tiếng Tây Hạ, tiếng Khất Đan cũng đều lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ vốn không thông minh nhưng tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan so với tiếng Hán thì giản dị hơn nhiều, ngày rộng tháng dài rồi cũng đủ cho người ta hiểu không cần phải thông dịch nữa.
Thấm thoát đã mấy tháng qua, đông đi xuân tới, A Tử ngày ngày dùng nhân sâm thay cơm, thương thế cũng đỡ. Người Nữ Chân đào nhân sâm nơi hoang sơn dã lãnh, đều là loại sâm già hạng nhất, còn quí hơn cả hoàng kim. Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều giết được rất nhiều dã thú, đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng, nếu vào người khác dẫu là hào phú có một tiểu thư ăn uống sâm nhiều như thế e rằng cũng đến khánh tận.
Tiêu Phong vẫn ngày ngày dùng nội lực giúp nàng vận khí, bây giờ một ngày chỉ cần hai lần chứ không phải như trước đây chưởng bất ly thân. A Tử cũng có lúc nói chuyện được vài câu nhưng chân tay tê bại không cử động, thành thử đi đứng nằm ngồi, chuyện ăn chuyện uống đều do Tiêu Phong lo liệu cả. Ông nghĩ đến mối thâm tình của A Châu nên không hiềm lo toan mệt nhọc, ngược lại còn thấy chăm sóc A Tử thêm một lần là báo đáp được A Châu thêm một chút nên trong lòng thấy thật an ủi.
Ngày hôm đó A Cốt Đả dẫn mươi người cùng bộ tộc định đi lên miền tây bắc săn gấu rủ Tiêu Phong đi cùng nói là gấu da dày lông rậm, rất nhiều mỡ, bàn chân gấu ăn thật ngon còn mật gấu trị thương rất là linh nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử tinh thần đã khá nhiều, cũng yên tâm đi săn nên vui vẻ nhận lời. Đoàn người trời chưa sáng đã ra đi, thẳng đường về hướng bắc.
Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết đang tan đấy bùn trơn trượt, trong rừng đầu những cành nát lá mục cực kỳ khó đi nhưng những người Nữ Chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn đi đứng vẫn thật mau. Đến khoảng trưa, một người thợ săn già kêu lên:
- Gấu kìa! Gấu kìa!
Mọi người đưa mắt theo hướng tay y chỉ thấy ở xa xa trên đất lầy có những vết chân lớn, cách không xa lại có một dấu nữa chính là dấu chân gấu. Mọi người ai nấy cao hứng lập tức theo vết chân lần theo.
Vết chân gấu dẵm xuống bùn cái nào cái nấy sâu đến mấy tấc nên trẻ con cũng theo được, cả đoàn người hò hét la ó, rảo bước tiến lên. Những vết chân đó đi về hướng tây, về sau ra khỏi bùn lầy trong rừng ra ngoài thảo nguyên mọi người đi càng nhanh hơn nữa.
Còn đang rảo bước đuổi theo bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, xa xa đằng trước bụi bay mù mịt một đại đội nhân mã đang phóng tới. Lại cũng thấy một con gấu đen thật lớn chạy lên, đằng sau là bảy tám người cưỡi ngựa to cao vừa hét vừa đuổi, ai nấy tay cầm trường mâu, có kẻ tay cầm cung tên ra chiều hăm hở.
A Cốt Đả kêu lớn:
- Người Khất Đan đó, bọn chúng đông người, chạy mau, chạy mau!
Tiêu Phong nghe thấy là người đồng bộ tộc với mình, trong lòng cảm thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả quay đầu bỏ chạy, nhưng không chạy theo mà đứng lại xem ra thế nào. Thế nhưng bọn người Khất Đan đã hét lên:
- Bọn mọi Nữ Chân, bắn tên! Bắn tên!
Chỉ nghe tiếng rít lên liên tiếp, vũ tiễn bắn tới như mưa. Tiêu Phong trong bụng bực tức nghĩ thầm: "Chẳng có lý do gì vừa thấy đã bắn là sao? Cớ chi không hỏi cho rõ ràng?" Mấy mũi tên bắn đến mặt ông đều bị ông đưa tay gạt ra cả. Bỗng nghe một tiếng "a" thảm thiết, người thợ săn Nữ Chân già lưng đã trúng tên, gục xuống chết ngay.
A Cốt Đả cùng cả bọn chạy qua khỏi một ngọn đồi, nằm mọp xuống, cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong ở giữa, không biết phải giúp bên nào cho phải. Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn tiếp tục bắn vào Tiêu Phong như mưa bấc, Tiêu Phong bắt lấy một mũi tên thuận tay múa lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra, lớn tiếng kêu:
- Làm gì đó? Không nói năng gì đã ra tay giết người là sao?
A Cốt Đả ở đằng sau cái gò gọi:
- Tiêu Phong, Tiêu Phong, chạy lại đây ngay! Bọn chúng không biết ngươi là người Khất Đan đâu!
Ngay lúc đó, hai tên Khất Đan cầm trường mâu, giục ngựa xông vào Tiêu Phong, hai ngọn giáo cùng giơ lên chia ra đâm vào hai bên tả hữu. Tiêu Phong không muốn giết người cùng bộ tộc mình, hai tay chộp hai cán giáo, hẩy nhẹ một cái, hai gã Khất Đan cùng từ trên yên ngựa ngã phịch xuống đất. Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai người lên, hai gã kia kêu rú lên, tung bay trở về rơi xuống một hồi lâu không dậy nổi. A Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền reo hò khen ngợi.
Một người trung niên mặc áo bào đỏ trong bọn Khất Đan liền lớn tiếng xí xố ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đan liền chia thành hai cánh, bao vây bọn Nữ Chân lại để chặn đường rút lui của A Cốt Đả, nhưng người áo đỏ vẫn còn mấy chục người đứng bảo vệ chung quanh.
A Cốt Đả thấy tình hình bất lợi, lớn tiếng kêu la, vẫy gọi tộc nhân và Tiêu Phong bỏ chạy. Người Khất Đan bắn tên ra như mưa, chết thêm hai người Nữ Chân nữa. Bên phía Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không trật mũi nào, trong khoảnh khắc đã bắn hạ được khoảng chục kỵ sĩ Khất Đan, có điều quả bất địch chúng nên phải vừa bắn vừa chạy.
Tiêu Phong thấy bọn người Khất Đan ngang ngược chẳng biết phải trái gì, tuy là người cùng bộ tộc với mình nhưng cũng chịu không nổi, cướp lấy một cánh cung, vụt vụt vụt vụt, bắn liền bốn mũi tên, mũi tên nào cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn người đều ngã xuống ngựa nhưng không ai chết. Người mặc hồng bào lại quát tháo lập tức có kẻ phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.
Tiêu Phong thấy bên mình nay chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên đang hết sức bôn đào, vừa chạy vừa bắn trả còn những người khác bị trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không chỗ nào có thể ẩn nấp, xem chừng nếu tiếp tục đánh thêm ngay cả A Cốt Đả cũng sẽ bị giết nốt. Ông nghĩ người Nữ Chân trước nay đối với mình như quí khách, nay bạn tốt cũng không bảo vệ được thì làm sao còn gọi là anh hùng hảo hán? Thế nhưng ra tay đại sát một phen để cho bọn người Khất Đan thấy khó mà lui ắt phải giết rất nhiều người cùng bộ tộc với mình, chi bằng bắt lấy người thủ lãnh áo đỏ kia, ép y phải hạ lệnh triệt thoái thì mới mong hai bên bãi đấu được.
Ông định bụng như thế rồi nên dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:
- Này, các ngươi mau mau rút lui! Nếu không thoái binh ta sẽ không nể nang gì nữa đâu nhé!
Soẹt soẹt soẹt ba tiếng, ba mũi giáo đã nhắm ngay mặt ông ném tới. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Bọn chúng bay quả không còn biết phải quấy là gì." Ông rùn mình xuống, xông thẳng về phía người mặc hồng bào. A Cốt Đả thấy bạn mình mạo hiểm liền kêu lên:
- Tiêu Phong, không được đâu, mau quay lại!
Tiêu Phong không để ý tới, tiếp tục phóng tới thật nhanh. Bọn người Khất Đan lập tức nhốn nháo, trường mâu vũ tiễn đều nhắm ông mà tấn công tới. Tiêu Phong chộp lấy một thanh trường mâu, bẻ làm đôi cầm thanh mâu gãy sử dụng như một thanh trường kiếm, gạt tất cả những binh khí phóng tới, bước chân vẫn như bay, xông ngay đến trước ngựa người áo đỏ.
Người đó mặt đầy râu ria, thần tình uy võ, thấy Tiêu Phong xông đến không tỏ vẻ gì hoảng sợ, giựt lấy ba thanh tiêu thương(26.4) của thủ hạ chung quanh, vụt một tiếng phóng vào Tiêu Phong. Tiêu Phong khua tay bắt được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt luôn. Ông vung tay một cái hai mũi lao bay ra, đâm luôn hai gã hộ vệ hai bên người áo đỏ ngã xuống ngựa. Người mặc hồng bào kêu lên:
- Giỏi lắm!
Mũi thương thứ ba liền ném ra, Tiêu Phong giơ tả chưởng lên, đẩy đầu mũi lao, tá lực đả lực, mũi lao vụt bay ngược lại bắn thẳng vào ức con ngựa y đang cưỡi. Người áo đỏ hoảng hốt kêu lên "ối trời" vội vàng nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, tay trái vươn ra chộp ngay được đầu vai bên phải của y. Ông nghe phía sau có tiếng gió ập tới, vội vàng nhún một cái, nhảy vụt về phía trước hơn một trượng, nghe phập phập, hai thanh trường mâu đã cắm thẳng xuống đất. Tiêu Phong ôm người áo đỏ nhảy sang bên tả, rơi xuống sau lưng một kỵ sĩ Khất Đan, vung tay đánh y một chưởng văng xuống rồi giục ngựa chạy ra.
Người áo đỏ giơ quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, ông giơ tay trái lên kẹp một cái, gã đó không còn cử động gì được nữa. Tiêu Phong quát lên:
- Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, nếu không ta kẹp chết ngươi chết tươi bây giờ.
Người mặc hồng bào không còn cách gì khác hơn, đành kêu lên:
- Tất cả lui ngay, không được đánh nữa.
Bọn người Khất Đan xôn xao tiến đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra tay cứu người. Tiêu Phong để mũi chiếc giáo gãy vào má gã áo đỏ, quát lớn:
- Các ngươi muốn ta đâm chết y chăng?
Một lão già Khất Đan quát lên:
- Mau thả thủ lãnh của bọn ta ra, nếu không ngươi sẽ bị ngũ mã phân thi ngay lập tức.
Tiêu Phong cười ha hả, vù một tiếng, nhắm ngay lão già kia lăng không đánh ra một chưởng. Chưởng đó ông cố tình ra oai dọa cho bọn chúng một mẻ để khỏi phải giết người nhiều hơn nữa nên kình lực sử dụng đủ mười thành. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, lão già Khất Đan kia trúng chưởng, từ trên lưng ngựa ngã văng ra mấy trượng, hộc máu mồm xem ra không còn sống được nữa.
Bọn Khất Đan xưa nay chưa từng chứng kiến thần kỹ phách không chưởng, lực đạo vô ảnh vô tung thật chẳng khác gì yêu pháp, ai nấy hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ Tiêu Phong đánh trúng mình. Tiêu Phong quát lớn:
- Các ngươi không lui ra, ta sẽ một chưởng đánh y chết trước.
Nói xong giơ tay lên làm như định đánh xuống đầu người áo đỏ. Người áo đỏ vội kêu:
- Các ngươi lùi ra ngay, ta sẽ ra sau!
Cả bọn lập tức lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Khu vực này chỗ nào cũng là đồng cỏ mênh mông, nếu mình thả thủ lãnh của chúng về, bọn họ cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không thể nào chạy thoát được." Ông quay sang nói với người áo đỏ:
- Ngươi bảo chúng đem lại đây tám con ngựa.
Y theo đúng thế ra lệnh, các kỵ sĩ Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn mã giao cho A Cốt Đả. A Cốt Đả căm hận bọn này giết đồng bọn mình, đấm một tên dắt ngựa nghe bình một tiếng khiến y lăn chòng chọc. Bọn Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả. Tiêu Phong lại tiếp:
- Ngươi hạ lệnh bảo bọn chúng giết con ngựa đang cưỡi, không để sót con nào.
Người mặc hồng bào cực kỳ dứt khoát, không tranh biện lớn tiếng truyền lệnh:
- Mọi người xuống ngựa, giết ngay con ngựa của mình đi.
Tất cả các kỵ sĩ không ai chần chừ gì, lập tức nhảy xuống, kẻ dùng bội đao, kẻ dùng trường mâu giết ngay con ngựa của mình. Tiêu Phong không ngờ quân sĩ tuân lệnh lẹ làng đến thế, trong lòng ngầm bội phục nghĩ thầm: "Gã mặc áo đỏ này xem ra chức vị không phải là thấp, mở miệng nói ra một câu, các võ sĩ không ai dám trái lệnh. Quân lệnh của người Khất Đan nghiêm minh thật, thảo nào giao chiến với người Tống bao giờ cũng thắng nhiều thua ít." Ông bèn nói:
- Ngươi bảo tất cả quay trở về, không ai được đuổi theo. Nếu một người đuổi theo, ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì tứ chi đều chặt hết.
Gã áo đỏ tức đến râu ria dựng ngược lên, nhưng bị kẹp chặt không thể làm gì khác chỉ đành truyền lệnh:
- Các ngươi quay trở về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt người Nữ Chân.
Các võ sĩ hô to:
- Tuân lệnh!
Tất cả cùng khom lưng hành lễ. Tiêu Phong quay đầu ngựa, đợi cho bọn A Cốt Đả sáu người lên yên rồi cả bọn theo đường cũ trở về. Đi được mấy dặm, Tiêu Phong thấy người Khất Đan quả nhiên không đuổi theo, bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ cưỡi một mình một con. Tám con ngựa không dừng bước chạy thẳng về đại doanh, A Cốt Đả bẩm lại cho phụ thân Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, được Tiêu Phong cứu, bắt được thủ lãnh bọn Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố rất vui mừng nói:
- Hay lắm, đem tên chó Khất Đan lên đây ta xem.
Người áo đỏ bước vào trong trướng nhưng thần thái vẫn uy võ, đứng hiên ngang không chịu khuất phục. Hòa Lý Bố biết y là quí nhân của Khất Đan bèn hỏi:
- Ngươi tên gì? Tại nước Liêu làm chức quan chi?
Gã kia ương ngạnh đáp:
- Có phải ngươi bắt được ta đâu, làm gì có quyền hỏi ta?
Người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán, mỗi khi bắt được ai thì kẻ đó là nô lệ của mình. Hòa Lý Bố cười ha hả nói:
- Ngươi nói đúng lắm!
Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, khuỵu chân phải, một bên gối quì xuống, tay phải để lên trán nói:
- Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại ông, bên ta đông mà vẫn thua. Ta bị ông bắt được, không có điều gì oán hận, nếu ông chịu thả ta về, ta sẽ đền lại năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã.
Chú của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói:
- Ngươi là đại quí nhân của Khất Đan, tiền chuộc bấy nhiêu ít quá. Tiêu huynh đệ, ngươi bảo y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.
Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, đem giá cả tăng lên gấp mười, cốt để hai bên trả giá. Với lối sống giản dị của người Nữ Chân, cái giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã là một tài sản hãn hữu. Người Nữ Chân giao chiến với người Khất Đan mấy chục năm qua, chưa bao giờ có món tiền chuộc nào lớn đến thế, nếu người áo đỏ không chịu tăng thêm cứ theo đúng những gì y hứa trả đã là một món hoạnh tài khổng lồ.
Ngờ đâu người áo đỏ không cần suy nghĩ đáp ngay:
- Được rồi, cứ thế mà tính.
Những người Nữ Chân trong trướng nghe vậy không khỏi giật mình, tưởng như không tin ở tai mình nữa. Người Nữ Chân hay Khất Đan nói láo để đánh lừa nhau không phải là không có, thế nhưng trong giao dịch mua bán, hoặc đã hứa với ai điều gì thì một là một, hai là hai không bao giờ nuốt lời. Huống chi đang nói đây là tiền chuộc, một khi người Khất Đan không giao đủ, hoặc như nói rồi lại không muốn làm thì người áo đỏ không thể nào trở về bản tộc được thành thử có hứa cuội cũng vô ích.
Phả Lạp Tô sợ rằng y bị bắt rồi kinh hoảng mất trí, đầu óc rối loạn bèn nói:
- Này, ngươi đã nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!
Người áo đỏ vẻ đầy kiêu ngạo, lạnh lùng nói:
- Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con thì đã là bao? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có bậc nhất thiên hạ, con số đó coi chẳng vào đâu.
Y quay sang nói với Tiêu Phong, đổi sắc mặt cung kính nói:
- Chủ nhân, ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta không thèm nghe đâu.
Phả Lạp Tô nói:
- Tiêu huynh đệ thử hỏi y xem y ở nước Liêu làm quan chức gì?
Tiêu Phong chưa kịp mở lời người kia đã nói:
- Chủ nhân nếu muốn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo đánh lừa ông, ông cũng không biết thật hay giả. Thế nhưng ông là anh hùng hảo hán, ta cũng anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông thành thử xin đừng hỏi làm gì.
Tiêu Phong tay trái lật một cái, rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay phải vỗ vào sống đao, nghe cạch một tiếng lưỡi đao đó liền cong lại, hầm hè quát:
- Ngươi lớn mật không nói chăng? Nếu bàn tay ta chém xuống đầu ngươi thì sẽ ra sao?
Người áo đỏ không tỏ vẻ gì sợ hãi, đưa ngón cái tay phải lên nói:
- Tài giỏi thật! Ghê gớm thật! Hôm nay ta được gặp đương thế đệ nhất anh hùng, quả không uổng! Tiêu anh hùng, nếu ông dùng lực uy hiếp muốn ta phải chịu khuất phục thì không xong đâu. Ông muốn giết cứ việc giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cũng cứng cỏi không kém gì ông đâu.
Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Giỏi, giỏi lắm! Ta không giết ngươi ở đây đâu. Nếu ta một đao giết ngươi, ngươi chắc không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, ác đấu một trận nữa.
Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng khuyên giải:
- Tiêu huynh đệ, người này giết đi thật uổng, chi bằng để y sống lấy tiền chuộc tốt hơn. Nếu như ngươi tức giận, chi bằng dùng gậy gỗ roi da đánh cho y một chập thật đau là được.
Tiêu Phong đáp:
- Không được! Y muốn cho mình là anh hùng hảo hán thì ta để cho y toại nguyện.
Ông quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung tên, nắm tay người áo đỏ cùng ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa ra lệnh:
- Lên ngựa mau!
Người mặc hồng bào không một chút sợ hãi, biết chắc đấu với Tiêu Phong thì chỉ có chết mà thôi, y đòi đấu thêm một trận nữa chẳng qua chỉ là mèo vờn chuột, muốn đùa rỡn một hồi rồi mới giết mình nhưng không sờn lòng lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.
Tiêu Phong theo sau, hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói:
- Quay qua hướng tây!
Người áo đỏ đáp:
- Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại nơi đây.
Tiêu Phong nói:
- Tiếp lấy!
Ông cầm trường mâu và cung tên ném qua, người kia đều bắt được cả, lớn tiếng nói:
- Tiêu anh hùng, ta biết chắc không phải là đối thủ nhưng người Khất Đan thà chết không chịu khuất phục! Ta ra tay đây!
Tiêu Phong đáp:
- Hãy khoan! Tiếp lấy đã!
Ông lại cầm cây giáo và cung tên còn lại trên tay mình thẩy qua, chỉ còn hai tay không, môi nở một nụ cười khó hiểu. Người áo đỏ cực kỳ giận dữ, gầm lên:
- Hừ, ngươi định tay không đấu với ta, chẳng phải làm nhục ta quá lắm hay sao?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Không phải thế! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng bậc anh hùng, yêu thích người hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta thật nhưng là kẻ đại đại anh hùng, hảo hán, Tiêu mỗ muốn kết bạn với ngươi! Thôi ngươi trở về bộ tộc của mình đi.
Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại:
- Cái... cái gì?
Tiêu Phong mỉm cười đáp:
- Ta nói Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho ngươi bình an quay trở về.
Người mặc hồng bào tưởng chết đến nơi lại bình yên vô sự, vui sướng không sao kể xiết hỏi lại:
- Có thực ngươi thả ta về chăng? Ngươi... chẳng hay ngươi... muốn gì? Ta về rồi sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.
Tiêu Phong hiên ngang đáp:
- Ta coi ngươi là bạn, sao ngươi lại không coi ta là bạn? Tiêu mỗ đường đường hán tử thế này, lẽ đâu lại còn tham ngoại thân tài vật hay sao?
Người áo đỏ đáp:
- Đúng thế!
Y ném binh khí đi, nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất vái lạy nói:
- Đa tạ ân công tha mạng!
Tiêu Phong quì xuống hoàn lễ đáp:
- Tiêu mỗ không giết bằng hữu, cũng không nhận bạn bè vái lạy. Còn như là phận nô lệ, thì dẫu có lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mỗ cũng chẳng tha đâu.
Người áo đỏ lại càng mừng hơn nữa, đứng lên nói:
- Tiêu anh hùng, ông luôn mồm nhận ta là bè bạn, vậy ta cùng ông kết làm anh em, nên chăng?
Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Trong bang vai vế phân biệt thật nghiêm minh, từ bang chủ, phó bang chủ trở xuống, còn có Truyền Công, Chấp Pháp, tứ đại hộ pháp trưởng lão, rồi đến hương chủ các đà, xuống đến đệ tử tám túi, đệ tử bảy túi cho chí kẻ chưa được mang túi nào. Thế nhưng ông chỉ lo lập công để được thăng cấp, chưa từng giao bái anh em với ai, mãi đến sau này ở thành Vô Tích cùng Đoàn Dự đấu rượu với nhau, có lòng cảm mến bấy giờ mới kết nghĩa kim lan. Bây giờ nghe người mặc hồng bào nói như thế, nghĩ đến trước đây ở Trung Nguyên giao thiệp với đủ mọi loại anh hùng, hôm nay lưu lạc, ăn nhờ ở đậu nơi đất man di, quả thực thất thế biết bao. Bây giờ nghe đề cập đến chuyện này, ông không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ hào hùng, quả là một hảo hán liền đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi. Tôn huynh quí canh bao nhiêu?
Người kia cười đáp:
- Tại hạ là Gia Luật Cơ, so với ân công thì lớn hơn mười ba tuổi.
Tiêu Phong nói:
- Huynh trưởng sao vẫn còn gọi tiểu đệ là ân công? Huynh trưởng là đại ca, xin nhận một lạy của đệ.
Nói xong bèn phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.
Hai người bèn lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi làm hương, hướng lên trời lạy tám lạy, kết làm anh em. Gia Luật Cơ trong lòng cực kỳ vui sướng nói:
- Huynh đệ họ Tiêu cũng chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.
Tiêu Phong đáp:
- Chẳng dấu gì huynh trưởng, tiểu đệ chính là gốc người Khất Đan.
Nói xong cởi áo ra, để lộ chiếc đầu sói xanh xâm trên ngực. Gia Luật Cơ vừa thấy thật mừng nói:
- Quả nhiên đúng vậy, ngươi thuộc về họ bên hoàng hậu Khất Đan. Huynh đệ, đất Nữ Chân lạnh lắm, chi bằng theo ta đi về Thượng Kinh, chung hưởng phú quí.
Tiêu Phong đáp:
- Đa tạ hảo ý của ca ca, có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, xem ra không hợp đời sống giàu sang. Tiểu đệ sống với người Nữ Chân, săn bắn uống rượu thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Ngày sau nếu nhớ ca ca, thể nào cũng có lúc qua nước Liêu đi kiếm.
Ông xa cách A Tử cũng đã lâu, khắc khoải không hiểu thương thế nàng thế nào bèn nói:
- Ca ca nên sớm quay về để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.
Sau đó hai người hành lễ cáo biệt. Tiêu Phong quay ngược đầu ngựa đã thấy A Cốt Đả cùng hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy Tiêu Phong đi lâu không về, e ngại không biết có trúng phải ngụy kế của người áo đỏ hay chăng, trong bụng không an nên đến tiếp ứng. Tiêu Phong kể lại đã thả y trở về nước Liêu, A Cốt Đả là kẻ rất hiểu biết, rất anh hùng thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng như thế lại càng thán phục.
Một ngày kia, Tiêu Phong nhàn rỗi nói chuyện chơi với A Cốt Đả, cho y hay sở dĩ A Tử thụ thương vì lỡ trúng phải chưởng lực của mình, tuy dùng nhân sâm có thể duy trì tính mạng nhưng đã lâu không thuyên giảm, hết sức buồn phiền. A Cốt Đả nói:
- Tiêu đại ca, thì ra cô em của đại ca bị ngoại thương, người Nữ Chân chúng tôi trị ngoại thương sai khớp xưa nay vẫn dùng ba vị thuốc gân hổ, xương hổ và mật gấu rất là hiệu nghiệm. Sao đại ca không thử xem thế nào?
Tiêu Phong mừng quá nói:
- Cái gì chứ gân hổ, xương hổ ở đây thiếu gì? Còn như mật gấu ư, ta sẽ cố gắng giết ít con là xong.
Ông hỏi kỹ cách dùng, lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao đút cho A Tử. Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang, đầm lớn kiếm gấu. Ông đi một mình, có thể thi triển khinh công, so với cùng đi cả đoàn tiện hơn nhiều. Hôm đầu không thấy dấu vết gấu, hôm thứ hai săn được một con. Ông mổ lấy mật, chạy về nơi đóng doanh, đút cho A Tử uống. Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm kiếm nơi rừng sâu núi thẳm đều là những dược phẩm cực kỳ trân quí dùng để trị thương, mật gấu tươi lại càng khó kiếm bội phần. Tiết Thần Y tuy nói là y đạo như thần nhưng không có thuốc thỉ cũng đành chịu, nếu phải dùng lão sơn sâm cho bệnh nhân dùng thay cơm thì ông cũng không thể nào làm nổi, còn như Tiêu Phong, cứ vài ngày đi đánh chết một con gấu lấy mật tươi cho A Tử uống thì càng khó hơn.(26.5)
Hôm đó, Tiêu Phong đang ngồi trong trướng nấu xương hổ, gân hổ làm cao, một gã Nữ Chân hấp tấp chạy đến nói:
- Tiêu đại ca, có khoảng chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại ca.
Tiêu Phong gật đầu, biết là do nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người đem tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa chậm rãi tiến vào, trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật. Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ xa đã vội vàng nhảy xuống ngựa, rảo bước tới trước mặt, lạy phục nói:
- Chủ nhân từ khi từ biệt Tiêu đại gia đến nay, nhớ nhung lắm lắm, đặc biệt sai tiểu nhân Thất Lý đem chút bạc lễ, lại mời Tiêu đại gia đến Thượng Kinh hàn huyên.
Nói xong khấu đầu mấy lượt, hai tay trình lễ đơn,(26.6) thần thái cực kỳ cung kính. Tiêu Phong đưa tay cầm danh sách cười nói:
- Quả là có lòng, xin hãy đứng dậy đã.
Ông mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan liền nói:
- Ta không biết chữ, chẳng cần xem làm gì.
Thất Lý nói:
- Chút bạc lễ này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng bạch ngân, một nghìn súc cẩm đoạn, một nghìn thạch lúa mạch hạng ngon, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài ra còn một số quần áo đồ dùng.
Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật như thế gấp mười tiền chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Ông thấy hơn chục con ngựa chở đến đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải bao nhiêu ngựa xe mới đủ.
Thất Lý khom lưng nói:
- Chủ nhân sợ các sinh vật đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò ngựa đều sai mang thêm một phần trừ hao nhưng may nhờ hồng phúc chủ nhân và Tiêu đại gia, bọn chúng tôi đi đường không bị gió bão dã thú, sinh khẩu(26.7) tổn thất rất ít.
Tiêu Phong thở dài:
- Gia Luật ca ca tính toán thật chu đáo, nếu ta không nhận thì phụ tấm lòng tốt của anh ta, còn nếu nhận tất cả, thì e quá đáng, không biết sao cho phải.
Thất Lý nói:
- Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu như Tiêu đại gia khách sáo không nhận, tiểu nhân trở về thể nào cũng bị phạt nặng.
Bỗng nghe tiếng tù và u u thổi, người Nữ Chân các doanh trướng đều cầm đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng truyền lệnh:
- Quân địch đến tấn công, dự bị nghênh chiến.
Tiêu Phong nhìn về phía tiếng tù và thổi thấy bụi bay mù mịt, tưởng chừng vô số quân mã đang tràn đến. Thất Lý lớn tiếng kêu:
- Các vị đừng hoảng hốt, đây là bò cừu ngựa của Tiêu đại gia đó.
Y dùng tiếng Nữ Chân liên tiếp gọi mấy lần nhưng những người kia chẳng ai chịu tin, Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy tộc nhân dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.
Tiêu Phong lần đầu tiên thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ thầm: "Bộ tộc Nữ Chân không đông nhưng người nào cũng nhanh nhẹn dữ dằn, các kỵ sĩ Khất Đan dưới quyền Gia Luật ca ca xem chừng không ghê gớm lắm, chưa bằng được khí thế người Nữ Chân, còn như quan binh nhà Đại Tống thì còn kém hơn nữa." Thất Lý kêu lên:
- Để tiểu nhân đi bảo bộ thuộc tạm ngừng không tiến lên nữa để khỏi hiểu lầm.
Y chuyển thân lên ngựa, phóng về hướng tây. A Cốt Đả giơ tay một cái, bốn tên thợ săn Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm người rong ngựa chầm chậm tiến tới thấy trên đồng cỏ bụi mù toàn là bò cừu ngựa, hơn trăm mục nhân Khất Đan dùng sào dài xua đuổi, ngoài ra không có quân sĩ.
Bốn người Nữ Chân cười rộ lên quay về, bẩm lại cho Hòa Lý Bố. Chẳng bao lâu, đội gia súc đến gần hơn, tiếng bò kêu ngựa hí rầm rĩ, át cả tiếng người không nghe thấy gì cả.
Tối hôm đó Tiêu Phong bảo người Nữ Chân giết cừu xẻ bò để đãi khách phương xa. Hôm sau, ông lấy một phần vàng bạc gấm vóc, thưởng cho bọn người đưa lễ vật đến. Đợi khi người Khất Đan cáo từ rồi, ông đem hết tất cả bò cừu ngựa, vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả bảo y chia cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân tụ tập sống chung với nhau, không có của riêng, một người được thì toàn thể bộ tộc hưởng chung, thấy Tiêu Phong khẳng khái như thế không cho là lạ lùng nhưng tự nhiên ở trên trời rơi xuống nhiều tài vật như thế, ai nấy đều vui vẻ. Toàn bộ tộc ăn uống vui chơi mấy ngày liền, người người đều cảm kích lòng tốt của Tiêu Phong.
Qua mùa hạ rồi sang mùa thu, bệnh của A Tử cũng đỡ được vài phần, thần trí vừa tỉnh táo thấy ngày ngày phải nằm trong trướng dưỡng thương thật chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa nàng ra ngoài cưỡi ngựa rong chơi cho thư thái tâm hồn. Hai người cưỡi chung một con, nàng ngồi đằng trước dựa vào ngực Tiêu Phong nên không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu Phong chiều chuộng cô gái hết mực, trong mấy tháng liền, trừ những ngày gió lớn, bão to hai người ngày nào cũng cùng nhau nhàn du. Về sau những nơi gần đi mãi cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng trại ngủ ở bên ngoài, mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân dịp đó đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc châm, gấu đen, mãnh hổ cả một dãy Trường Bạch bị chết khá nhiều, không biết bao nhiêu con táng mạng dưới chưởng của Tiêu Phong.
Tiêu Phong vì muốn đi đào sâm nên mỗi lần đều theo hướng đông hoặc hướng bắc. Hôm đó A Tử bảo rằng phía đông phía bắc phong cảnh coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây chơi. Tiêu Phong nói:
- Phía tây chỉ là một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông ngòi gì mà coi.
A Tử đáp:
- Đại thảo nguyên cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả, tiểu muội chưa từng được thấy biển cả thực bao giờ. Tinh Tú Hải tuy nói là biển nhưng vẫn còn bến còn bờ.
Tiêu Phong nghe nàng đề cập đến "biển Tinh Tú" cũng thấy chột dạ. Trong một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ lâm đã dần dần quên lãng, A Tử không hành động được, muốn làm chuyện xấu xa cũng chẳng có cách gì. Còn ông chỉ cố hết sức giúp nàng trị thương cứu mạng, nhưng lại sợ rằng một khi thuyên giảm, ác tính cả nàng lại phát tác, lúc đó biết làm sao?
Ông quay đầu nhìn A Tử, thấy khuôn mặt tái mét không một chút máu, má hóp lại, đôi mắt to đen lõm vào, dung sắc cực kỳ tiều tụy, người gầy tong teo chỉ còn da bọc xương. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong lòng: "Nàng vốn dĩ là một cô bé con khả ái hoạt bát biết là dường nào, bị ta đánh đến chết đi sống lại, có khác gì một bộ xương khô, sao ta lại chỉ nghĩ đến những điều xấu của nàng?" Ông bèn mỉm cười:
- Nếu cô thích đi qua hướng tây thì mình đi qua đó xem sao. A Tử, khi nào bệnh em đỡ nhiều rồi, ta sẽ đưa em đến biên giới nước Cao Ly để xem biển cả thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bến bờ, cảnh đó coi mới thật là hùng vĩ.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Thực ra chẳng cần phải đợi cho bệnh của em khỏi hẳn lúc ấy mình mới đi.
Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa mừng vừa sợ hỏi:
- A Tử, hai tay của em cử động được như thường rồi.
A Tử cười đáp:
- Nửa tháng trước hai tay tiểu muội đã cử động được, hôm nay lại càng linh hoạt hơn nhiều.
Tiêu Phong mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm! Ngươi quả là một con bé cứng đầu, vậy mà sao lại dấu ta?
Đôi mắt A Tử lóe lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp:
- Em chỉ mong được vĩnh viễn không cử động, có thế tỉ phu mới ngày ngày ở bên cạnh em. Chú nếu như thương thế em khỏi rồi, tỉ phu sẽ lại đuổi em đi.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật chân thành, trong bụng không khỏi thương hại nói:
- Ta là một hán tử lỗ mãng, hôm đó không cẩn thận, lỡ tay đánh cô ra nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta có gì vui đâu?
A Tử không trả lời, một lát sau mới khẽ hỏi:
- Sao hôm đó tỉ phu xuất chưởng đánh em mạnh như thế?
Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp:
- Chuyện đó vốn đã qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử, ta đánh cô đến bị thương như thế này, trong lòng cảm thấy thật áy náy, em có giận ta không?
A Tử đáp:
- Lẽ dĩ nhiên tiểu muội không giận, có việc gì em phải giận tỉ phu đâu? Em vốn chỉ mong được anh ở kề cận bên mình, bây giờ chẳng phải được như thế hay sao? Trong lòng em hết sức sung sướng là khác.
Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy thấy ý nghĩ của tiểu cô nương này thật là quái lạ, nhưng gần đây thấy nàng trở nên tử tế hơn trước, nghĩ bụng mình hết sức lo lắng cho cô ta đã làm cái tính độc ác của nàng giảm đi thật nhiều. Ông quay về dự bị ngựa xe, màn trướng, lương khô mọi thứ.
Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được trên chục dặm, A Tử bỗng hỏi:
- Tỉ phu có đoán ra được chưa?
Tiêu Phong hỏi lại:
- Đoán ra cái gì?
A Tử nói:
- Hôm đó em đột nhiên dùng độc châm đả thương anh, tỉ phu có biết vì cớ gì không?
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Tâm tư cô thần xuất quỉ một, làm sao ta đoán nổi?
A Tử thở dài một tiếng nói:
- Nếu anh không đoán ra, thì chi bằng đừng nghĩ tới nữa. Tỉ phu xem thử sao những con vịt trời kia, sao lại làm thành một đoàn bay về hướng nam là sao?
Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy bên trời hai đoàn đại nhạn, bay thành hình chữ nhân, quả thực đang bay về hướng nam bèn nói:
- Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam tránh tuyết.
A Tử hỏi:
- Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về? Mỗi năm bay đi bay lại chẳng khổ sở khó nhọc lắm ru? Bọn chúng nếu sợ lạnh sao không ở luôn phương nam, cần gì phải quay lại.
Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ từng suy nghĩ về tập tính của cầm thú côn trùng, bị nàng hỏi như thế, không sao trả lời được, lắc đầu cười nói:
- Ta cũng chẳng hiểu sao chúng lại không ngại gian khổ, chắc có lẽ là chim nhạn sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.
A Tử gật đầu nói:
- Chắc là thế. Anh xem con nhạn sau cùng kia, tuy còn nhỏ vậy mà cũng ráng bay về phương nam. Mai này cha nó, mẹ nó, chị nó, anh rể nó cùng bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng đi theo.
Tiêu Phong nghe nàng nói "chị nó, anh rể nó", trong lòng chợt động đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô bé đang ngẩng đầu mơ màng nhìn về phía đàn chim nơi chân trời, hiển nhiên câu đó nói ra không có ý gì, nghĩ thầm: "Nàng buột miệng nói ra, vậy mà đem ta cùng với cha mẹ bỏ chung một giỏ, đủ biết trong lòng nàng coi mình là một người rất thân, từ nay không thể nào tùy tiện bỏ rơi nàng. Để đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta sẽ đưa nàng trở về Đại Lý, giao lại cho cha mẹ, lúc đó gánh nặng trên vai mới trút đi được."
Trên đường, hai người vừa đi vừa nói chuyện. Đến khi A Tử mệt mỏi, Tiêu Phong liền bồng nàng từ trên lưng ngựa xuống, bỏ vào thùng xe ở đằng sau cho nàng ngủ. Khi dêm xuống, hai người tìm rừng cây dựng lều. Cứ như thế mấy ngày liền, đã đến bên bờ đồng cỏ. A Tử đưa mắt nhìn quanh thấy đại thảo nguyên không bờ không bến, trong lòng hết sức cao hứng nói:
- Mình nhìn qua hướng tây chẳng thấy đâu là tận cùng, còn như biển cả mênh mông thì nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ không bến.
Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa đồng cỏ, không muốn trái ý nàng, giơ roi lên quất một cái giục ngựa đi tiếp về hướng tây.
Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả đến lúc nhìn chung quanh bốn phía, không còn thấy biên giới dồng cỏ là đâu. Khi đó vào mùa thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng rì rào, xào xạc thật là dễ chịu. Trong đồng cỏ những thú nhỏ rất nhiều, Tiêu Phong săn bắt con nào ăn con đó, không lo không sầu.
Lại đi thêm mấy ngày nữa, hôm ấy đến trưa, nhìn đằng xa thấy có vô số doanh trướng, lại thêm cờ xí mao tiết, dường như chỗ đóng quân, lại trông như nơi bộ lạc sống chung với nhau. Tiêu Phong nói:
- Trước mặt đông người lắm, không biết họ đang làm gì, mình đi về dể khỏi gây thêm rắc rối.
A Tử nói:
- Không! Không! Em muốn đến xem. Hai chân em còn chưa cử động được, đâu có thể gây rắc rối gì cho anh?
Tiêu Phong cười nói:
- Chuyện rắc rối đâu có phải chỉ do ngươi mà ra, có khi người khác gây cho mình, ngươi có muốn tránh cũng không được.
A Tử cười nói:
- Thế thì mình đến xem cũng chẳng sao cả.
Tiêu Phong biết cái tính trẻ con thích chỗ náo nhiệt của nàng nổi lên, nên giục ngựa đi chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế phẳng lì, những doanh trướng đó từ đằng xa đã nhìn thấy nhưng đi cho tới nơi, lộ trình cũng không phải ngắn. Đi đến bảy tám dặm rồi, bỗng nghe tiếng kèn hiệu thổi u u, tiếp theo bụi bay mù mịt, hai hàng nhân mã mở ra, một đội đi về hướng bắc, một đội phóng về phía nam.
Tiêu Phong hơi kinh hãi nói:
- Không xong, đây là kỵ binh người Khất Đan.
A Tử nói:
- Là người của anh đấy ư? Thế thì hay quá chứ có gì bảo là không hay?
Tiêu Phong đáp:
- Nhưng ta không biết họ là ai, thôi mình quay về.
Ông ghìm cương ngựa quay đầu, theo đường cũ để trở về. Chưa được mấy bước, bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, lại có mấy đội kỵ binh Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Bốn bề không thấy có địch nhân đâu cả, không lẽ họ thao luyện tập trận chăng?"
Chỉ nghe tiếng người vang lên:
- Bắn hươu đi! Bắn hươu đi!
Phía tây, phía bắc, phía nam chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn hươu. Tiêu Phong nói:
- Thì ra họ vây để săn thú, thanh thế như vậy quả không phải nhỏ.
Ông bèn bồng A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông nhìn ra. Chỉ thấy kỵ binh Khất Đan người nào cũng mặc cẩm bào, bên trong có áo giáp sắt. Cẩm bào màu sắc đội thì đỏ, đội thì xanh, đội thì vàng, đội thì tím, cờ quạt với áo cùng màu, tới lui nhanh chậm, mã tráng binh cường trông thật đẹp mắt, Tiêu Phong và A Tử đứng coi mà khen ngợi thầm. Quân sĩ nghe theo quân lệnh dọc ngang tiến thoái, giơ trường mâu ra xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử, cũng chỉ liếc một cái rồi không để ý gì tới nữa. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn bên, dồn mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con theo khe hở chạy được ra ngoài thì lập tức có một toán quân nhỏ đi ra cản, vây thành vòng tròn đuổi trở lại vào trong.
Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.
Anh hùng giữa cảnh núi non,
Can vân hào khí vẫn còn như xưa.
* * *
Tiêu Phong trong lúc ngàn cân treo trên sợi tóc thoát được hiểm nghèo như thế, kêu thầm "hú vía," ý niệm đầu tiên nghĩ đến là: "Con tiểu yêu nữ này tâm địa độc ác thật, dám dùng cách đó ám toán ta." Ông biết ám khí phái Tinh Tú thật là lợi hại, độc địa đến cực điểm, nếu như bị bắn trúng thì thật khó mà sống được, không khỏi tim đập thình thình.
Đến khi ông nhìn lại A Tử bị một chưởng đánh văng xa hơn chục trượng, đột nhiên thất kinh: "Chết rồi, chưởng đó cô ta làm sao chịu nổi? E rằng bị mình đánh chết rồi." Ông nhún một cái phóng mình nhảy tới, thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, máu từ hai bên khóe miệng ứa ra, mặt vàng khè như đồ hàng mã, lần này quả là ngừng thở thật rồi.
Tiêu Phong ngẩn ngơ nghĩ bụng: "Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại giết luôn cả cô em gái của nàng. Nàng... nàng khi sắp chết đã dặn ta lo lắng cho muội muội, ngờ đâu... ngờ đâu... ta lại đánh chết luôn cả nó." Tuy ý nghĩ đó chỉ vụt qua đầu nhưng bởi ông tâm thần hoảng hốt nên tưởng như trải qua một thời gian thật dài. Ông lắc đầu, vội vàng giơ chưởng đè vào sau lưng A Tử, đem chân khí nội lực hết sức truyền vào. Một lúc sau, thân hình A Tử hơi rung động, Tiêu Phong mừng quá gọi:
- A Tử, A Tử, em đừng chết, bằng giá nào ta cũng nhất định sẽ cứu em.
Thế nhưng A Tử chỉ cựa một cái rồi lại nằm yên. Tiêu Phong hết sức bồn chồn, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên mặt tuyết, nhè nhẹ đỡ A Tử lên, để ngồi trước mặt đưa song chưởng để vào sau lưng, đem chân lực từ từ truyền vào người cô gái. Ông biết rằng A Tử bị thương rất nặng, lúc này chỉ cốt sao giữ cho nàng còn thoi thóp, tạm thời không chết rồi tìm cách cứu chữa sau thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức chậm rãi. Độ chừng thời gian một bữa ăn, trên đầu ông tỏa ra những làn hơi trắng đủ biết đã dùng toàn lực rồi.
Cứ như thế liên tục hành công chừng nửa giờ A Tử mới hơi động đậy, rên khẽ lên một tiếng:
- Tỉ phu!
Tiêu Phong mừng quá, tiếp tục truyền vào nhưng không nói chuyện với nàng, thấy thân thể cô ta dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở nhè nhẹ. Tiêu Phong e ngại có chuyện không hay nên không dám ngừng chuyển nội lực, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn mặc dù mặt vẫn xanh mét không một chút máu. Ông liền bồng ngang nàng trên tay, rảo bước chạy đi.
Ông gia tăng cước bộ, cố sao vừa nhanh vừa ổn, tay trái vẫn để lên sau lưng A Tử, không ngừng chuyển chân khí vào. Chạy đến hơn một giờ mới đến một tiểu thị trấn, nơi đó không có khách điếm, đành phải tiếp tục đi về hướng bắc, chạy đến hơn hai chục dặm, mới tìm ra được một nhà trọ thật sơ sài. Khách điếm đó không có tiểu nhị, do chính chủ nhân tự hầu hạ khách hàng. Tiêu Phong bảo người chủ đem lại cho ông một bát cháo nóng, dùng thìa múc đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng chỉ uống được ba thìa, rồi lại ói ra cả, trong nước cháo có lẫn máu bầm.
Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương kỳ này xem ra khó mà trị được, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y nào có biết đang ở nơi nao, mà dẫu có ở gần bên, cũng chưa chắc đã làm được gì. Hôm trước A Châu bị thương không trực tiếp do chưởng lực của phương trượng chùa Thiếu Lâm mà đã nguy hiểm vạn phần, lại được bôi linh cao của Đàm Công Thái Hàng sơn, rồi được Tiết Thần Y cứu chữa, có thế mới khỏi. Tuy ông biết tính mạng A Tử khó mà bảo tồn nhưng không vì thế mà chịu bó tay, chỉ nghĩ: "Dù ta phải hết lòng hết sức, chân khí nội lực hao kiệt hoàn toàn cũng cố còn nước còn tát. Không phải ta muốn cứu cô ta mà chính là vì không muốn phụ lời trăn trối của A Châu."
Ông vẫn biết A Tử ra tay ám toán mình trước, trong hoàn cảnh đó, nếu không đánh chưởng đó ra, tính mạng ắt không còn. Người võ công cao cường như ông, mỗi khi gặp nguy đâu còn kịp suy nghĩ gì lập tức ra tay chống đỡ giải nạn. Ông bị bắt buộc phải đả thương A Tử, ví như A Châu có mặt nơi đây thì cũng không trách cứ gì được vì chính A Tử tự gây ra họa cho mình chứ không liên quan đến ai, có điều vì A Châu không biết nên ông cảm thấy có lỗi với nàng.
Đêm hôm đó ông không chợp mắt được chút nào, thâu đêm không ngừng truyền chân khí để duy trì tính mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu bị thương, chỉ khi nào hơi thở thoi thóp Tiêu Phong mới ra tay, còn hiện giờ bàn tay ông không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, nếu không sẽ lập tức chết ngay.
Tối hôm sau cũng y như thế. Tiêu Phong công lực tuy mạnh thật nhưng hai ngày hai đêm hao tốn hơi sức cũng mệt mỏi vô cùng. Hai vò rượu mà tiểu khách điếm trữ được đã bị ông uống sạch không còn một giọt, muốn bảo chủ quán đi mua thêm nhưng túi đã cạn.
Ông một ngày không ăn cơm cũng chẳng hề gì nhưng một buổi không có rượu thì thật khó chịu, lúc này trong bụng đang buồn bực lại càng cần có rượu cho tỉnh táo, nghĩ thầm: "Trên người A Tử ắt có mang theo tiền bạc."
Ông cởi cái bị của nàng ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ, vài đĩnh bạc lẻ. Ông lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy cái túi có một sợi dây vải màu tím, một đầu buộc vào ngang hông. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Gớm cô bé này cẩn thận quá, sợ cái túi bị rơi mất, không biết cái gì mà buộc dính chặt vào người thế này mới yên bụng." Ông cởi cái nút buộc vào lưng, cái nút đó tết thật kỹ, dùng một tay phải mất bao nhiêu công lao mới gỡ ra được. Cái dây vừa tuột ra dường như đầu kia còn có vật gì dấu trong quần.
Ông buông tay ra nghe cách một tiếng, vật đó rơi xuống sàn, chính là một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi xuống nhặt lên đặt trên bàn. Chiếc đỉnh đó điêu khắc cực kỳ tinh mỹ bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, trong thớ có thấp thoáng vân đỏ. Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, cảm thấy chán ghét nên chỉ liếc qua rồi không màng tới nữa, nghĩ thầm: "Tiểu cô nương này quả là giảo hoạt, mồm năm miệng mười bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh đã giao cho ta rồi, có ai ngờ vẫn dấu trong ống quần. Có lẽ đồng môn của nàng tưởng đã giao lại cho ta thật, hoặc giả không tiện tra xét đàn bà con gái nên trước sau không ai khám phá ra được. Ôi, hôm nay tính mạng nàng cũng chẳng giữ được, cái thứ thân ngoại chi vật này có làm gì?"
Ông bèn gọi chủ quán vào bảo y cầm lượng bạc đi mua rượu thịt, còn mình tiếp tục dùng nội lực bảo trì tính mạng cho A Tử. Đến sáng ngày thứ tư, ông không còn chịu đựng được nữa, chỉ còn nước hai tay nắm một bàn tay A Tử, ôm nàng vào lòng cho dựa lên người mình, đem nội lực truyền theo chưởng tâm, chỉ được một lát hai mắt không còn mở nổi, lơ mơ ngủ luôn.
Thế nhưng ông khắc khoải tính mạng A Tử nên chỉ chợp mắt một tí rồi lại choàng tỉnh, cũng may trong khi nằm ngủ, chân khí lưu động miễn sao lòng bàn tay không xa rời A Tử nên hơi thở của cô ta không bị đứt quãng.
Cứ như thế thêm hai ngày nữa, tuy A Tử miễn cưỡng không tắt hơi nhưng thương thế chẳng bớt chút nào, dẫu nằm chết bẹp trong tiểu điếm này cũng chẳng đi đến đâu? Thỉnh thoảng A Tử cũng mở được mắt nhưng thần thái lờ đờ, hiển nhiên không biết gì cả, cũng không nói năng được câu nào. Tiêu Phong hết sức suy nghĩ nhưng không tìm ra kế sách, nghĩ thầm: "Thôi đành ôm nàng lên đường, may ra còn có cơ hội chứ ở trong khách điếm này rồi cũng vô phương."
Ông bèn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng bỏ vào bọc, thấy cái đỉnh trên bàn nghĩ thầm: "Cái thứ đồ này chỉ dùng để hại người, chi bằng đập vỡ nó đi cho xong." Ông định giơ chưởng đánh xuống bỗng chợt nghĩ lại: "A Tử trăm đắng nghìn cay mới ăn trộm được cái vật này. Bây giờ xem ra thương thế nàng không thể nào chữa được, lúc sắp chết hồi quang phản chiếu, có thể tỉnh táo lại trong phút chốc, không chừng lại hỏi đến cái mộc đỉnh, lúc đó ta đem ra cho nàng xem để nàng an tâm mà chết còn hơn ôm hận xuống tuyền đài."
Ông bèn cầm cái đỉnh gỗ lên, vừa chạm phải cảm thấy dường như bên trong có cái gì cựa quậy, hết sức lạ lùng, chăm chú nhìn, mới hay chung quanh có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn nơi cổ đỉnh có đường ngấn, xem ra có thể tháo ra. Ông lấy ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh, dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay phía trên qua bên trái, quả nhiên chuyển động được. Xoay được mấy vòng, mở nắp nhìn vào trong không khỏi ngạc nhiên, lại thấy kinh khiếp. Thì ra bên trong có hai con độc trùng, một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau hết sức dữ dội.
Mấy hôm trước khi ông bỏ chiếc đỉnh trên bàn, trong đỉnh rõ ràng có gì đâu, xem ra con rết và con bò cạp này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong đoán chừng đây là phương pháp tìm bắt độc trùng độc vật của phái Tinh Tú nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất, lấy chân dẵm chết, sau đó đóng nắp lại, bỏ lại vào trong túi vải. Tiêu Phong tính toán tiền nong xong xuôi rồi, ôm A Tử lên xông gió đạp tuyết đi về hướng bắc.
Ông kết oán thù cực kỳ sâu xa với hào kiệt Trung Nguyên, đường đi càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng đầu nhân vật võ lâm. Ông không muốn giết người kết thêm thù oán, lại không muốn cải trang, thêm trên tay ôm A Tử nếu phải động thủ với người thực là bất tiện thành thử tránh đường lớn, chỉ tìm những đường mòn hẻo lánh ở chốn sơn dã mà đi nên suốt mấy trăm dặm vẫn bình an vô sự.
Hôm đó đến một thị trấn lớn, thấy một tiệm thuốc bên ngoài có treo bảng: "Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí," nghĩ bụng: "Địa phương nhỏ chắc không có danh y đâu nhưng mình cũng cứ vào thử xem thế nào." Ông liền ôm A Tử đi vào xin chữa trị.
Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại bắt mạch A Tử lần nữa, lại nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt cực kỳ khác lạ, đột nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong bực tức nói:
- Này thầy lang, ta nhờ ông chữa bệnh cho em gái ta chứ nào có nhờ thầy chữa cho ta đâu.
Vương Thông Trị lắc đầu nói:
- Ta xem ông cũng có bệnh, đầu óc khật khùng, tâm thần rối loạn đảo điên, cần phải chữa trị ngay đi.
Tiêu Phong đáp:
- Ta làm gì mà đầu óc khật khùng?
Vương Thông Trị đáp:
- Vị cô nương này mạch đã ngừng, vốn dĩ chết rồi, có điều thân thể chưa cứng đấy thôi. Ngươi ôm cô ta đi tìm thầy thuốc làm gì? Thế chẳng phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể sống lại, ngươi cũng chẳng nên quá thương tâm mà ôm xác lệnh muội, chi bằng mau mau đem chôn, thế cũng là xong.
Tiêu Phong dở khóc dở cười nhưng ngẫm lại lời ông lang này cũng có lý, đúng là A Tử chết rồi, chỉ còn nhờ chân khí của mình mà thoi thóp, thầy lang tầm thường làm sao biết được? Ông đứng lên quay người đi ra.
Bỗng thấy một người ăn mặc theo lối quản gia hấp tấp chạy vào tiệm thuốc giục giã:
- Mau lên! Mau lên! Cho loại lão sơn nhân sâm(26.1) tốt nhất. Lão thái gia nhà ta bị trúng phong, sắp tắt hơi đến nơi, cần nhân sâm để giữ cho khỏi chết.
Dược điếm chưởng quĩ vội đáp:
- Có đây! Có đây! Thượng hảo hạng lão sơn nhân sâm đây.
Tiêu Phong nghe nói "lão sơn nhân sâm để giữ cho khỏi chết" lập tức nhớ ra cũng từng nghe người bệnh nặng sắp tắt thở nếu cho uống mấy ngụm sâm thang sắc đặc thì có thể cầm hơi, sống thêm được một lúc, trối trăn vài câu, có điều không nghĩ tới để dùng cho A Tử. Gã chưởng quĩ lấy ra một cái hộp gỗ gụ, trịnh trọng mở nắp trong đó có ba củ sâm to bằng ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, bên ngoài nhăn nhúm càng quí nếu lại thành hình người, đủ cả đầu mình chân tay ấy là loại già dặn cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông chẳng có gì đặc biệt, gã quản gia lấy một củ lật đật đi ngay.
Tiêu Phong lấy đĩnh vàng ra, mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc giùm khách hàng, lập tức bảo nấu sâm thang đút cho A Tử uống mấy hớp. Lần này may quá nàng không nôn ra. Lại cho nàng uống thêm mấy ngụm nữa, Tiêu Phong cảm thấy mạch nhảy mạnh hơn, hơi thở cũng đều hòa được một chút, trong bụng không khỏi mừng thầm.
Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên cạnh, liên tiếp lắc đầu nói:
- Lão huynh, nhân sâm không phải dễ kiếm, phí phạm thế thật uổng. Nhân sâm cũng chẳng phải linh chi tiên thảo, nếu như cứu người chết sống lại được thì kẻ có tiền chắc sống đời đời.
Mấy hôm nay Tiêu Phong không hề rời xa A Tử được lấy một bước, trong lòng buồn bực đã lâu, nghe gã Vương Thông Trị đứng kế bên lèm bèm rặt giọng bàn ra, tức khí xông lên, vung tay toan đánh cho y một chưởng. Thế nhưng ông vừa cất tay thì cố nhịn: "Đánh bừa bãi kẻ không biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?" Ông bèn rụt tay về, ôm A Tử lên đi ra khỏi tiệm thuốc bắc, văng vẳng nghe Vương Thông Trị vẫn còn khinh khỉnh nói theo:
- Hán tử này quả là hồ đồ, ôm cái xác chết chạy ngược chạy xuôi, xem ra tính mạng y cũng chẳng được bao lâu.
Ông thầy lang có biết đâu mình vừa đến quỉ môn quan lại quay trở lại, nếu như Tiêu Phong tức giận đánh cho bõ tức thì dẫu có mười Vương Thông Trị cũng thành bất trị.
Tiêu Phong ra khỏi dược điếm rồi nghĩ thầm: "Nghe nói lão sơn nhân sâm chỉ có ở nơi cực lạnh trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó cầu may. Vẫn biết cứu sống A Tử quả là thiên nan vạn nan, nhưng giữ cho nàng sống thêm được ngày nào, A Châu ở trên trời có linh thiêng thì trong lòng cũng vui vẻ thêm được chừng nấy."
Nghĩ thế ông chuyển qua bên phải tìm đường đi về phía đông bắc. Trên đường đi mỗi khi gặp tiệm thuốc liền đi vào mua nhân sâm, đến sau tiền bạc tiêu hết, chẳng ngại ngùng gì vào lấy không, vài tên phổ ky(26.2) làm gì ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng có thể mở mắt ra, kêu khẽ: "Tỉ phu!" đến tối cũng ngủ được vài giờ không cần tiếp chân khí mà vẫn tự mình thoi thóp được. Cứ như thế càng đi càng lạnh, sau cùng Tiêu Phong cũng bế A Tử đến được núi Trường Bạch. Tuy nói là trong dãy Trường Bạch có nhiều nhân sâm nhưng nếu không phải là người chuyên môn đã quen thuộc địa thế, trong nghề sành sỏi lâu năm, thì dẫu có một năm sáu tháng cũng chưa chắc tìm ra một củ. Tiêu Phong tiếp tục lên hướng bắc, người đi đường càng lúc càng thưa, đến sau chung quanh chỉ là rừng sâu cỏ dày, núi cao đồi tuyết, luôn mấy ngày cũng không gặp một ai, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm: "Chết rồi! Khắp nơi chỗ nào cũng băng tuyết, làm thế nào mà tìm được sâm? Chi bằng trở về nơi nào có buôn bán, có tiền thì mua, không tiền thì cướp." Nghĩ thế ông ôm A Tử tìm đường quay trở về.
Khi đó khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng cao mấy thước thật là khó đi, nếu ông không phải là người võ công trác tuyệt thì dù không chết cóng cũng bị sa lầy vào trong tuyết trắng chẳng thoát ra được.
Đi đến ngày thứ ba, trời u ám, xem ra bão tuyết đang kéo đến, đưa mắt trái phải trước sau chỗ nào cũng trắng xóa, trên mặt đất không thấy một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong trong bụng hoang mang, tựa hồ đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến chỉ có tiếng gió rít thổi ù ù bên tai.
Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy bận nhảy lên trên cây cao nhìn bốn bề, chung quanh chỉ toàn cây cối rậm rạp tuyết phủ trắng xóa nào có biết đâu là đông, là tây, là nam, là bắc? Ông sợ A Tử bị lạnh, cởi trường bao ra bọc nàng lại ôm vào lòng. Ông tuy trước nay không sợ trời sợ đất gì cả nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn lại một thân một mình, không khỏi chột dạ. Nếu quả như chỉ mình ông thôi thì cũng đành, biển tuyết tuy mênh mông nhưng cũng không đến nỗi tuyệt vọng, thế nhưng khỗ nỗi trong tay lại ôm một nàng A Tử đang mê man, sống dở chết dở.
Đã ba hôm nay ông không ăn uống gì, tính chuyện bắt một con gà rừng hay con thỏ dại chi đó nhưng cũng không thấy nghĩ thầm: "Mình cứ chạy lung tung thế này chẳng đi đến đâu, chi bằng ngủ lại một đêm trong rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao sẽ có thể tìm ra phương hướng."
Ông kiếm một nơi khuất gió, kiếm ít củi khô, đốt một đống lửa. Lửa cháy to rồi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp nhưng bụng đói đến sôi sùng sục, nhìn dưới gốc cây có những cây nấm dại màu trắng xám xem chừng không độc liền hái nướng lên ăn đỡ dạ.
Ăn đến hơn hai chục tai nấm rồi tinh thần cũng hơi phấn chấn, bèn đỡ A Tử nằm dựa vào ngực mình để sưởi. Đang toan nhắm mắt ngủ bỗng nghe một tiếng "à uôm" thật lớn, chính là tiếng hổ gầm. Tiêu Phong mừng quá: "Xem ra có thú lớn đến đây, mình có thịt hổ ăn rồi."
Ông lắng tai nghe, thấy có hai con hổ từ tuyết địa chạy tới, kế đó có tiếng lao xao, dường như có người đang đuổi theo. Ông nghe thấy tiếng người thật mừng hết cỡ, lắng tai nghe thấy hai con dã thú chạy về hướng tây, lập tức đặt A Tử xuống bên cạnh đống lửa, thi triển khinh công, đi tắt chặn đầu chúng lại. Khi đó tuyết đổ đang nhiều, gió bấc thổi mạnh, khiến cho khắp trời chỗ nào cũng mù mịt.
Chỉ mới chạy được độ mươi trượng đã thấy trên mặt tuyết hai con hổ vằn vện đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán lưng khoác da thú, tay cầm đinh ba đang rượt nà theo. Hai con cọp đó thật lớn, chạy được một quãng thì một con gầm lên quay phắt lại chồm vào người thợ săn. Hán tử đó liền giơ chĩa lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh thú đâm tới. Con cọp đó hết sức nhanh nhẹn, hất đầu qua tránh được thiết xoa, cùng lúc đó con hổ kia cũng xông tới vồ.
Người thợ săn lập tức đảo đinh ba lại, nghe bịch một tiếng đã dùng cán chĩa quật ngang bụng con vật. Con vật bị đau, rống lên một tiếng, cụp đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng không màng lập tức chạy theo.
Tiêu Phong thấy người thợ săn thân thể cao to, cánh tay thật khỏe nhưng không biết võ công, chỉ quen với tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y đã để thiết xoa đón trước, chính là cách liệu địch cơ tiên nhưng muốn đâm chết hai con cọp quả không phải dễ.
Tiêu Phong kêu lên:
- Lão huynh, ta đến giúp ngươi đây.
Ông từ trong phóng ra chặn đường hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu Phong xông ra, hết sức kinh hãi, lớn tiếng la lối om sòm, không phải Hán ngữ. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì cũng chẳng để ý, giơ tay phải lên, nhắm ngay đầu một con cọp đánh cho một chưởng, bình một tiếng, con vật tung lên, lộn tùng phèo, kêu rống lên rồi phóng thẳng vào ông.
Chưởng mới rồi Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành lực, dù là kẻ võ công cao cường, nếu trúng đòn thì thể nào cũng vỡ đầu nhưng mãnh hổ sọ cứng xương thô, chưởng lực liệt thạch khai bi kia cũng chỉ khiến nó lộn đi một vòng rồi lại xông vào. Tiêu Phong khen thầm: "Giỏi nhỉ, mi quả là gớm thật!" nghiêng người né qua, tay phải từ trên chém xéo xuống, nghe bụp một tiếng, trúng ngay ngang sườn con vật.
Cú chém đó ông tăng thêm một thành công lực, con mãnh hổ loạng quạng mấy bước, rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp trúng ngay đuôi con cọp, tay trái cũng phụ vào, quát lên một tiếng, thi triển thần lực kéo ghì con hổ lại. Con cọp đang phóng về phía trước bị Tiêu Phong giữ ghịt, hai luồng lực đạo chõi nhau khiến con vật bị hất tung lên.
Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong quăng con cọp lên kinh ngạc không sao kể xiết. Con cọp ở trên không nhe răng, giương vuốt, từ cao vồ xuống. Tiêu Phong lại quát lên một tiếng, song chưởng cùng tung ra, nghe hự một tiếng, trúng ngay bụng dưới con vật. Bụng hổ là nơi thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng đó chính là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp liền vỡ nát, lăn lộn một hồi trên mặt tuyết rồi chết tươi.
Người thợ săn trong lòng hết sức kính phục, người ta tay không đánh cọp, mình dùng đinh ba giết một con không xong, chẳng khiến người ta coi thường lắm ru? Nghĩ thế y bèn đâm trái một cái, đâm phải một cái, hết nhát nọ đến nhát kia nhằm ngay mình hổ mà nhử. Con cọp bị trúng mấy nhát, hung tính nổi lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.
Gã thợ săn nghiêng qua tránh được, đinh ba đảo ngang, nghe phụp một tiếng đã đâm ngay vào cổ con thú, hai tay đẩy một cái, con vật rống lên thảm thiết ngã lăn ra đất. Người đó vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp xuống mặt tuyết. Chỉ nghe tiếng soạt soạt liên tiếp, quần áo bằng da thú trên người y đã bục ra một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn cuộn trông thật hùng vĩ.
Tiêu Phong nhìn thấy khen thầm: "Hảo hán tử!" Con hổ nằm chổng bốn chân lên trời, móng vuốt cào cấu vùng vẫy, chỉ một lát không còn động đậy gì nữa. Người thợ săn rút chiếc đinh ba ra, cười lên ha hả, quay người lại, nhìn Tiêu Phong giơ lên một ngón tay cái, nói xí xố mấy câu. Tiêu Phong tuy không hiểu y nói gì nhưng nhìn thần tình của y cũng biết đang khen ngợi mình quả là anh hùng, bèn bắt chước bộ dạng của y, cũng giơ hai ngón tay cái lên nói:
- Anh hùng! Anh hùng!
Người đó mừng lắm, chỉ chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả!
Tiêu Phong nghĩ chắc đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Tiêu Phong!
Người kia hỏi lại:
- Tiêu Phong? Khất Đan?
Tiêu Phong gật đầu nói:
- Khất Đan! Ngươi?
Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!
Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao Ly có một giống người tên gọi Nữ Chân, tộc nhân dũng mãnh thiện chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả này là người thuộc giống này.(26.3) Tuy ngôn ngữ không thông nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng gặp được một đồng bạn cũng vui mừng khôn xiết, lập tức hoa chân múa tay cho y biết là còn một người nữa, sau đó vác con hổ chết lên đi lại phía A Tử đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y lên đi theo ở đằng sau.
Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại cắt cổ cho máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt được nhưng vẫn biết uống, đến trên chục ngụm mới thôi. Tiêu Phong rất mừng, cắt hai đùi nướng trên lửa. A Cốt Đả thấy ông tay không xé con vật như người ta xé con gà, thủ kình như thế y chưa từng thấy, chưa từng nghe, ngơ ngẩn nhìn hai cánh tay ông một hồi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cổ tay, cánh tay ông, nét mặt đầy vẻ kính phục.
Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn đến no. A Cốt Đả mới ra hiệu hỏi ông đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng chỉ trỏ ý nói đi tìm nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc lối. A Cốt Đả cười ha hả, lại múa may lung tung nói là muốn có nhân sâm thì rất dễ, đi theo y bao nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả giơ tay lên khen:
- Khỏe thật!
Địa thế vùng này A Cốt Đả rất quen thuộc tuy trời gió bão lớn nhưng không lầm lẫn chút nào. Hai người đi đến chiều tối thì ngủ lại trong rừng, đến sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa ngày thứ ba, Tiêu Phong thấy trên mặt tuyết rất nhiều dấu chân. A Cốt Đả liên tiếp ra hiệu nói là đã đến gần tộc nhân rồi. Quả nhiên đi qua hai cái thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm tấm đến mấy trăm căn lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, từ trong doanh trướng lập tức có người ra đón.
Tiêu Phong theo A Cốt Đả tới gần, thấy trước mỗi căn lền đều có một đống lửa, vô khối đàn bà ngồi đầy chung quanh kẻ thì may da thú, người thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ngay chính giữa, vén màn đi vào. Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn, đang uống rượu, vừa thấy mặt A Cốt Đả đã lớn tiếng reo hò ầm ỹ. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói huyên thuyên, nhìn bộ dạng đoán chừng đang kể lại chuyện ông tay không đánh chết hổ.
Mọi người liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên, không ngớt tấm tắc khen ngợi. Còn đang xôn xao, một gã người Hán ăn mặc theo lối con buôn bước vào, quay sang hỏi Tiêu Phong:
- Vị gia đài này có nói được tiếng Hán không?
Tiêu Phong mừng rỡ đáp:
- Được chứ! Được chứ!
Hỏi ra mới biết căn lều này là doanh trướng của tộc trưởng Nữ Chân. Người ngồi giữa có râu đen là trưởng tộc Hòa Lý Bố. Ông ta có cả thảy mười một người con, người nào cũng anh hùng, A Cốt Đả là con trai thứ. Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, năm nào đến mùa đông cũng tới đây thu mua nhân sâm, da thú đến đầu mùa xuân mới quay về. Hứa Trác Thành biết nói tiếng Nữ Chân nên làm thông dịch cho Tiêu Phong.
Người Nữ Chân với người Khất Đan thường thường vẫn đánh lẫn nhau nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả là người lanh lợi giỏi giang, rất được phụ thân yêu thích, người trong bộ lạc cũng kính trọng y, nay luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên không ai hiềm rằng ông là người Khất Đan mà đều đối xử như khách quí.
A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở, Tiêu Phong chối từ mấy câu nhưng A Cốt Đả nhất định không chịu. Tiêu Phong thấy y thành thực nên đành chấp nhận.
Tối hôm đó người Nữ Chân mở một đại tiệc để đón chào Tiêu Phong, thịt hai con mãnh hổ đương nhiên trở thành món ăn trân quí. Đã nửa tháng nay môi Tiêu Phong không được chạm đến một giọt rượu, bây giờ người Nữ Chân đem túi da này đến túi da khác, đến đâu hết đó, Tiêu Phong được một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị cay sè cực mạnh, người thường chỉ cần nửa bao đã say nhưng Tiêu Phong uống luôn một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Người Nữ Chân xưa nay vẫn xem lượng rượu uống nhiều ít mà coi là hảo hán, chuyện ông tay không đánh cọp chỉ nghe kể chưa thấy tận mắt nhưng cách uống rượu thế này, mười hảo hán Nữ Chân đến uống thi mà chẳng một ai hơn khiến tất cả đều kính phục.
Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân nể sợ ông nên cũng hết sức chiều đãi. Tiêu Phong nhàn rỗi không việc gì làm, ban ngày cùng với A Cốt Đả đi săn, đến tối về lại học tiếng Nữ Chân với Hứa Trác Thành. Học được bốn năm thành rồi, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không lẽ không biết nói tiếng Khất Đan xem ra thật không phải nên lại nhờ y dạy. Hứa Trác Thành đi lại nhiều nơi, chẳng nói tiếng Nữ Chân mà tiếng Tây Hạ, tiếng Khất Đan cũng đều lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ vốn không thông minh nhưng tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan so với tiếng Hán thì giản dị hơn nhiều, ngày rộng tháng dài rồi cũng đủ cho người ta hiểu không cần phải thông dịch nữa.
Thấm thoát đã mấy tháng qua, đông đi xuân tới, A Tử ngày ngày dùng nhân sâm thay cơm, thương thế cũng đỡ. Người Nữ Chân đào nhân sâm nơi hoang sơn dã lãnh, đều là loại sâm già hạng nhất, còn quí hơn cả hoàng kim. Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều giết được rất nhiều dã thú, đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng, nếu vào người khác dẫu là hào phú có một tiểu thư ăn uống sâm nhiều như thế e rằng cũng đến khánh tận.
Tiêu Phong vẫn ngày ngày dùng nội lực giúp nàng vận khí, bây giờ một ngày chỉ cần hai lần chứ không phải như trước đây chưởng bất ly thân. A Tử cũng có lúc nói chuyện được vài câu nhưng chân tay tê bại không cử động, thành thử đi đứng nằm ngồi, chuyện ăn chuyện uống đều do Tiêu Phong lo liệu cả. Ông nghĩ đến mối thâm tình của A Châu nên không hiềm lo toan mệt nhọc, ngược lại còn thấy chăm sóc A Tử thêm một lần là báo đáp được A Châu thêm một chút nên trong lòng thấy thật an ủi.
Ngày hôm đó A Cốt Đả dẫn mươi người cùng bộ tộc định đi lên miền tây bắc săn gấu rủ Tiêu Phong đi cùng nói là gấu da dày lông rậm, rất nhiều mỡ, bàn chân gấu ăn thật ngon còn mật gấu trị thương rất là linh nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử tinh thần đã khá nhiều, cũng yên tâm đi săn nên vui vẻ nhận lời. Đoàn người trời chưa sáng đã ra đi, thẳng đường về hướng bắc.
Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết đang tan đấy bùn trơn trượt, trong rừng đầu những cành nát lá mục cực kỳ khó đi nhưng những người Nữ Chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn đi đứng vẫn thật mau. Đến khoảng trưa, một người thợ săn già kêu lên:
- Gấu kìa! Gấu kìa!
Mọi người đưa mắt theo hướng tay y chỉ thấy ở xa xa trên đất lầy có những vết chân lớn, cách không xa lại có một dấu nữa chính là dấu chân gấu. Mọi người ai nấy cao hứng lập tức theo vết chân lần theo.
Vết chân gấu dẵm xuống bùn cái nào cái nấy sâu đến mấy tấc nên trẻ con cũng theo được, cả đoàn người hò hét la ó, rảo bước tiến lên. Những vết chân đó đi về hướng tây, về sau ra khỏi bùn lầy trong rừng ra ngoài thảo nguyên mọi người đi càng nhanh hơn nữa.
Còn đang rảo bước đuổi theo bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, xa xa đằng trước bụi bay mù mịt một đại đội nhân mã đang phóng tới. Lại cũng thấy một con gấu đen thật lớn chạy lên, đằng sau là bảy tám người cưỡi ngựa to cao vừa hét vừa đuổi, ai nấy tay cầm trường mâu, có kẻ tay cầm cung tên ra chiều hăm hở.
A Cốt Đả kêu lớn:
- Người Khất Đan đó, bọn chúng đông người, chạy mau, chạy mau!
Tiêu Phong nghe thấy là người đồng bộ tộc với mình, trong lòng cảm thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả quay đầu bỏ chạy, nhưng không chạy theo mà đứng lại xem ra thế nào. Thế nhưng bọn người Khất Đan đã hét lên:
- Bọn mọi Nữ Chân, bắn tên! Bắn tên!
Chỉ nghe tiếng rít lên liên tiếp, vũ tiễn bắn tới như mưa. Tiêu Phong trong bụng bực tức nghĩ thầm: "Chẳng có lý do gì vừa thấy đã bắn là sao? Cớ chi không hỏi cho rõ ràng?" Mấy mũi tên bắn đến mặt ông đều bị ông đưa tay gạt ra cả. Bỗng nghe một tiếng "a" thảm thiết, người thợ săn Nữ Chân già lưng đã trúng tên, gục xuống chết ngay.
A Cốt Đả cùng cả bọn chạy qua khỏi một ngọn đồi, nằm mọp xuống, cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong ở giữa, không biết phải giúp bên nào cho phải. Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn tiếp tục bắn vào Tiêu Phong như mưa bấc, Tiêu Phong bắt lấy một mũi tên thuận tay múa lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra, lớn tiếng kêu:
- Làm gì đó? Không nói năng gì đã ra tay giết người là sao?
A Cốt Đả ở đằng sau cái gò gọi:
- Tiêu Phong, Tiêu Phong, chạy lại đây ngay! Bọn chúng không biết ngươi là người Khất Đan đâu!
Ngay lúc đó, hai tên Khất Đan cầm trường mâu, giục ngựa xông vào Tiêu Phong, hai ngọn giáo cùng giơ lên chia ra đâm vào hai bên tả hữu. Tiêu Phong không muốn giết người cùng bộ tộc mình, hai tay chộp hai cán giáo, hẩy nhẹ một cái, hai gã Khất Đan cùng từ trên yên ngựa ngã phịch xuống đất. Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai người lên, hai gã kia kêu rú lên, tung bay trở về rơi xuống một hồi lâu không dậy nổi. A Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền reo hò khen ngợi.
Một người trung niên mặc áo bào đỏ trong bọn Khất Đan liền lớn tiếng xí xố ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đan liền chia thành hai cánh, bao vây bọn Nữ Chân lại để chặn đường rút lui của A Cốt Đả, nhưng người áo đỏ vẫn còn mấy chục người đứng bảo vệ chung quanh.
A Cốt Đả thấy tình hình bất lợi, lớn tiếng kêu la, vẫy gọi tộc nhân và Tiêu Phong bỏ chạy. Người Khất Đan bắn tên ra như mưa, chết thêm hai người Nữ Chân nữa. Bên phía Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không trật mũi nào, trong khoảnh khắc đã bắn hạ được khoảng chục kỵ sĩ Khất Đan, có điều quả bất địch chúng nên phải vừa bắn vừa chạy.
Tiêu Phong thấy bọn người Khất Đan ngang ngược chẳng biết phải trái gì, tuy là người cùng bộ tộc với mình nhưng cũng chịu không nổi, cướp lấy một cánh cung, vụt vụt vụt vụt, bắn liền bốn mũi tên, mũi tên nào cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn người đều ngã xuống ngựa nhưng không ai chết. Người mặc hồng bào lại quát tháo lập tức có kẻ phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.
Tiêu Phong thấy bên mình nay chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên đang hết sức bôn đào, vừa chạy vừa bắn trả còn những người khác bị trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không chỗ nào có thể ẩn nấp, xem chừng nếu tiếp tục đánh thêm ngay cả A Cốt Đả cũng sẽ bị giết nốt. Ông nghĩ người Nữ Chân trước nay đối với mình như quí khách, nay bạn tốt cũng không bảo vệ được thì làm sao còn gọi là anh hùng hảo hán? Thế nhưng ra tay đại sát một phen để cho bọn người Khất Đan thấy khó mà lui ắt phải giết rất nhiều người cùng bộ tộc với mình, chi bằng bắt lấy người thủ lãnh áo đỏ kia, ép y phải hạ lệnh triệt thoái thì mới mong hai bên bãi đấu được.
Ông định bụng như thế rồi nên dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:
- Này, các ngươi mau mau rút lui! Nếu không thoái binh ta sẽ không nể nang gì nữa đâu nhé!
Soẹt soẹt soẹt ba tiếng, ba mũi giáo đã nhắm ngay mặt ông ném tới. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Bọn chúng bay quả không còn biết phải quấy là gì." Ông rùn mình xuống, xông thẳng về phía người mặc hồng bào. A Cốt Đả thấy bạn mình mạo hiểm liền kêu lên:
- Tiêu Phong, không được đâu, mau quay lại!
Tiêu Phong không để ý tới, tiếp tục phóng tới thật nhanh. Bọn người Khất Đan lập tức nhốn nháo, trường mâu vũ tiễn đều nhắm ông mà tấn công tới. Tiêu Phong chộp lấy một thanh trường mâu, bẻ làm đôi cầm thanh mâu gãy sử dụng như một thanh trường kiếm, gạt tất cả những binh khí phóng tới, bước chân vẫn như bay, xông ngay đến trước ngựa người áo đỏ.
Người đó mặt đầy râu ria, thần tình uy võ, thấy Tiêu Phong xông đến không tỏ vẻ gì hoảng sợ, giựt lấy ba thanh tiêu thương(26.4) của thủ hạ chung quanh, vụt một tiếng phóng vào Tiêu Phong. Tiêu Phong khua tay bắt được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt luôn. Ông vung tay một cái hai mũi lao bay ra, đâm luôn hai gã hộ vệ hai bên người áo đỏ ngã xuống ngựa. Người mặc hồng bào kêu lên:
- Giỏi lắm!
Mũi thương thứ ba liền ném ra, Tiêu Phong giơ tả chưởng lên, đẩy đầu mũi lao, tá lực đả lực, mũi lao vụt bay ngược lại bắn thẳng vào ức con ngựa y đang cưỡi. Người áo đỏ hoảng hốt kêu lên "ối trời" vội vàng nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, tay trái vươn ra chộp ngay được đầu vai bên phải của y. Ông nghe phía sau có tiếng gió ập tới, vội vàng nhún một cái, nhảy vụt về phía trước hơn một trượng, nghe phập phập, hai thanh trường mâu đã cắm thẳng xuống đất. Tiêu Phong ôm người áo đỏ nhảy sang bên tả, rơi xuống sau lưng một kỵ sĩ Khất Đan, vung tay đánh y một chưởng văng xuống rồi giục ngựa chạy ra.
Người áo đỏ giơ quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, ông giơ tay trái lên kẹp một cái, gã đó không còn cử động gì được nữa. Tiêu Phong quát lên:
- Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, nếu không ta kẹp chết ngươi chết tươi bây giờ.
Người mặc hồng bào không còn cách gì khác hơn, đành kêu lên:
- Tất cả lui ngay, không được đánh nữa.
Bọn người Khất Đan xôn xao tiến đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra tay cứu người. Tiêu Phong để mũi chiếc giáo gãy vào má gã áo đỏ, quát lớn:
- Các ngươi muốn ta đâm chết y chăng?
Một lão già Khất Đan quát lên:
- Mau thả thủ lãnh của bọn ta ra, nếu không ngươi sẽ bị ngũ mã phân thi ngay lập tức.
Tiêu Phong cười ha hả, vù một tiếng, nhắm ngay lão già kia lăng không đánh ra một chưởng. Chưởng đó ông cố tình ra oai dọa cho bọn chúng một mẻ để khỏi phải giết người nhiều hơn nữa nên kình lực sử dụng đủ mười thành. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, lão già Khất Đan kia trúng chưởng, từ trên lưng ngựa ngã văng ra mấy trượng, hộc máu mồm xem ra không còn sống được nữa.
Bọn Khất Đan xưa nay chưa từng chứng kiến thần kỹ phách không chưởng, lực đạo vô ảnh vô tung thật chẳng khác gì yêu pháp, ai nấy hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ Tiêu Phong đánh trúng mình. Tiêu Phong quát lớn:
- Các ngươi không lui ra, ta sẽ một chưởng đánh y chết trước.
Nói xong giơ tay lên làm như định đánh xuống đầu người áo đỏ. Người áo đỏ vội kêu:
- Các ngươi lùi ra ngay, ta sẽ ra sau!
Cả bọn lập tức lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Khu vực này chỗ nào cũng là đồng cỏ mênh mông, nếu mình thả thủ lãnh của chúng về, bọn họ cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không thể nào chạy thoát được." Ông quay sang nói với người áo đỏ:
- Ngươi bảo chúng đem lại đây tám con ngựa.
Y theo đúng thế ra lệnh, các kỵ sĩ Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn mã giao cho A Cốt Đả. A Cốt Đả căm hận bọn này giết đồng bọn mình, đấm một tên dắt ngựa nghe bình một tiếng khiến y lăn chòng chọc. Bọn Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả. Tiêu Phong lại tiếp:
- Ngươi hạ lệnh bảo bọn chúng giết con ngựa đang cưỡi, không để sót con nào.
Người mặc hồng bào cực kỳ dứt khoát, không tranh biện lớn tiếng truyền lệnh:
- Mọi người xuống ngựa, giết ngay con ngựa của mình đi.
Tất cả các kỵ sĩ không ai chần chừ gì, lập tức nhảy xuống, kẻ dùng bội đao, kẻ dùng trường mâu giết ngay con ngựa của mình. Tiêu Phong không ngờ quân sĩ tuân lệnh lẹ làng đến thế, trong lòng ngầm bội phục nghĩ thầm: "Gã mặc áo đỏ này xem ra chức vị không phải là thấp, mở miệng nói ra một câu, các võ sĩ không ai dám trái lệnh. Quân lệnh của người Khất Đan nghiêm minh thật, thảo nào giao chiến với người Tống bao giờ cũng thắng nhiều thua ít." Ông bèn nói:
- Ngươi bảo tất cả quay trở về, không ai được đuổi theo. Nếu một người đuổi theo, ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì tứ chi đều chặt hết.
Gã áo đỏ tức đến râu ria dựng ngược lên, nhưng bị kẹp chặt không thể làm gì khác chỉ đành truyền lệnh:
- Các ngươi quay trở về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt người Nữ Chân.
Các võ sĩ hô to:
- Tuân lệnh!
Tất cả cùng khom lưng hành lễ. Tiêu Phong quay đầu ngựa, đợi cho bọn A Cốt Đả sáu người lên yên rồi cả bọn theo đường cũ trở về. Đi được mấy dặm, Tiêu Phong thấy người Khất Đan quả nhiên không đuổi theo, bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ cưỡi một mình một con. Tám con ngựa không dừng bước chạy thẳng về đại doanh, A Cốt Đả bẩm lại cho phụ thân Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, được Tiêu Phong cứu, bắt được thủ lãnh bọn Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố rất vui mừng nói:
- Hay lắm, đem tên chó Khất Đan lên đây ta xem.
Người áo đỏ bước vào trong trướng nhưng thần thái vẫn uy võ, đứng hiên ngang không chịu khuất phục. Hòa Lý Bố biết y là quí nhân của Khất Đan bèn hỏi:
- Ngươi tên gì? Tại nước Liêu làm chức quan chi?
Gã kia ương ngạnh đáp:
- Có phải ngươi bắt được ta đâu, làm gì có quyền hỏi ta?
Người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán, mỗi khi bắt được ai thì kẻ đó là nô lệ của mình. Hòa Lý Bố cười ha hả nói:
- Ngươi nói đúng lắm!
Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, khuỵu chân phải, một bên gối quì xuống, tay phải để lên trán nói:
- Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại ông, bên ta đông mà vẫn thua. Ta bị ông bắt được, không có điều gì oán hận, nếu ông chịu thả ta về, ta sẽ đền lại năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã.
Chú của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói:
- Ngươi là đại quí nhân của Khất Đan, tiền chuộc bấy nhiêu ít quá. Tiêu huynh đệ, ngươi bảo y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.
Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, đem giá cả tăng lên gấp mười, cốt để hai bên trả giá. Với lối sống giản dị của người Nữ Chân, cái giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã là một tài sản hãn hữu. Người Nữ Chân giao chiến với người Khất Đan mấy chục năm qua, chưa bao giờ có món tiền chuộc nào lớn đến thế, nếu người áo đỏ không chịu tăng thêm cứ theo đúng những gì y hứa trả đã là một món hoạnh tài khổng lồ.
Ngờ đâu người áo đỏ không cần suy nghĩ đáp ngay:
- Được rồi, cứ thế mà tính.
Những người Nữ Chân trong trướng nghe vậy không khỏi giật mình, tưởng như không tin ở tai mình nữa. Người Nữ Chân hay Khất Đan nói láo để đánh lừa nhau không phải là không có, thế nhưng trong giao dịch mua bán, hoặc đã hứa với ai điều gì thì một là một, hai là hai không bao giờ nuốt lời. Huống chi đang nói đây là tiền chuộc, một khi người Khất Đan không giao đủ, hoặc như nói rồi lại không muốn làm thì người áo đỏ không thể nào trở về bản tộc được thành thử có hứa cuội cũng vô ích.
Phả Lạp Tô sợ rằng y bị bắt rồi kinh hoảng mất trí, đầu óc rối loạn bèn nói:
- Này, ngươi đã nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!
Người áo đỏ vẻ đầy kiêu ngạo, lạnh lùng nói:
- Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con thì đã là bao? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có bậc nhất thiên hạ, con số đó coi chẳng vào đâu.
Y quay sang nói với Tiêu Phong, đổi sắc mặt cung kính nói:
- Chủ nhân, ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta không thèm nghe đâu.
Phả Lạp Tô nói:
- Tiêu huynh đệ thử hỏi y xem y ở nước Liêu làm quan chức gì?
Tiêu Phong chưa kịp mở lời người kia đã nói:
- Chủ nhân nếu muốn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo đánh lừa ông, ông cũng không biết thật hay giả. Thế nhưng ông là anh hùng hảo hán, ta cũng anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông thành thử xin đừng hỏi làm gì.
Tiêu Phong tay trái lật một cái, rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay phải vỗ vào sống đao, nghe cạch một tiếng lưỡi đao đó liền cong lại, hầm hè quát:
- Ngươi lớn mật không nói chăng? Nếu bàn tay ta chém xuống đầu ngươi thì sẽ ra sao?
Người áo đỏ không tỏ vẻ gì sợ hãi, đưa ngón cái tay phải lên nói:
- Tài giỏi thật! Ghê gớm thật! Hôm nay ta được gặp đương thế đệ nhất anh hùng, quả không uổng! Tiêu anh hùng, nếu ông dùng lực uy hiếp muốn ta phải chịu khuất phục thì không xong đâu. Ông muốn giết cứ việc giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cũng cứng cỏi không kém gì ông đâu.
Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Giỏi, giỏi lắm! Ta không giết ngươi ở đây đâu. Nếu ta một đao giết ngươi, ngươi chắc không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, ác đấu một trận nữa.
Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng khuyên giải:
- Tiêu huynh đệ, người này giết đi thật uổng, chi bằng để y sống lấy tiền chuộc tốt hơn. Nếu như ngươi tức giận, chi bằng dùng gậy gỗ roi da đánh cho y một chập thật đau là được.
Tiêu Phong đáp:
- Không được! Y muốn cho mình là anh hùng hảo hán thì ta để cho y toại nguyện.
Ông quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung tên, nắm tay người áo đỏ cùng ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa ra lệnh:
- Lên ngựa mau!
Người mặc hồng bào không một chút sợ hãi, biết chắc đấu với Tiêu Phong thì chỉ có chết mà thôi, y đòi đấu thêm một trận nữa chẳng qua chỉ là mèo vờn chuột, muốn đùa rỡn một hồi rồi mới giết mình nhưng không sờn lòng lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.
Tiêu Phong theo sau, hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói:
- Quay qua hướng tây!
Người áo đỏ đáp:
- Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại nơi đây.
Tiêu Phong nói:
- Tiếp lấy!
Ông cầm trường mâu và cung tên ném qua, người kia đều bắt được cả, lớn tiếng nói:
- Tiêu anh hùng, ta biết chắc không phải là đối thủ nhưng người Khất Đan thà chết không chịu khuất phục! Ta ra tay đây!
Tiêu Phong đáp:
- Hãy khoan! Tiếp lấy đã!
Ông lại cầm cây giáo và cung tên còn lại trên tay mình thẩy qua, chỉ còn hai tay không, môi nở một nụ cười khó hiểu. Người áo đỏ cực kỳ giận dữ, gầm lên:
- Hừ, ngươi định tay không đấu với ta, chẳng phải làm nhục ta quá lắm hay sao?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Không phải thế! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng bậc anh hùng, yêu thích người hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta thật nhưng là kẻ đại đại anh hùng, hảo hán, Tiêu mỗ muốn kết bạn với ngươi! Thôi ngươi trở về bộ tộc của mình đi.
Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại:
- Cái... cái gì?
Tiêu Phong mỉm cười đáp:
- Ta nói Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho ngươi bình an quay trở về.
Người mặc hồng bào tưởng chết đến nơi lại bình yên vô sự, vui sướng không sao kể xiết hỏi lại:
- Có thực ngươi thả ta về chăng? Ngươi... chẳng hay ngươi... muốn gì? Ta về rồi sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.
Tiêu Phong hiên ngang đáp:
- Ta coi ngươi là bạn, sao ngươi lại không coi ta là bạn? Tiêu mỗ đường đường hán tử thế này, lẽ đâu lại còn tham ngoại thân tài vật hay sao?
Người áo đỏ đáp:
- Đúng thế!
Y ném binh khí đi, nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất vái lạy nói:
- Đa tạ ân công tha mạng!
Tiêu Phong quì xuống hoàn lễ đáp:
- Tiêu mỗ không giết bằng hữu, cũng không nhận bạn bè vái lạy. Còn như là phận nô lệ, thì dẫu có lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mỗ cũng chẳng tha đâu.
Người áo đỏ lại càng mừng hơn nữa, đứng lên nói:
- Tiêu anh hùng, ông luôn mồm nhận ta là bè bạn, vậy ta cùng ông kết làm anh em, nên chăng?
Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Trong bang vai vế phân biệt thật nghiêm minh, từ bang chủ, phó bang chủ trở xuống, còn có Truyền Công, Chấp Pháp, tứ đại hộ pháp trưởng lão, rồi đến hương chủ các đà, xuống đến đệ tử tám túi, đệ tử bảy túi cho chí kẻ chưa được mang túi nào. Thế nhưng ông chỉ lo lập công để được thăng cấp, chưa từng giao bái anh em với ai, mãi đến sau này ở thành Vô Tích cùng Đoàn Dự đấu rượu với nhau, có lòng cảm mến bấy giờ mới kết nghĩa kim lan. Bây giờ nghe người mặc hồng bào nói như thế, nghĩ đến trước đây ở Trung Nguyên giao thiệp với đủ mọi loại anh hùng, hôm nay lưu lạc, ăn nhờ ở đậu nơi đất man di, quả thực thất thế biết bao. Bây giờ nghe đề cập đến chuyện này, ông không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ hào hùng, quả là một hảo hán liền đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi. Tôn huynh quí canh bao nhiêu?
Người kia cười đáp:
- Tại hạ là Gia Luật Cơ, so với ân công thì lớn hơn mười ba tuổi.
Tiêu Phong nói:
- Huynh trưởng sao vẫn còn gọi tiểu đệ là ân công? Huynh trưởng là đại ca, xin nhận một lạy của đệ.
Nói xong bèn phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.
Hai người bèn lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi làm hương, hướng lên trời lạy tám lạy, kết làm anh em. Gia Luật Cơ trong lòng cực kỳ vui sướng nói:
- Huynh đệ họ Tiêu cũng chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.
Tiêu Phong đáp:
- Chẳng dấu gì huynh trưởng, tiểu đệ chính là gốc người Khất Đan.
Nói xong cởi áo ra, để lộ chiếc đầu sói xanh xâm trên ngực. Gia Luật Cơ vừa thấy thật mừng nói:
- Quả nhiên đúng vậy, ngươi thuộc về họ bên hoàng hậu Khất Đan. Huynh đệ, đất Nữ Chân lạnh lắm, chi bằng theo ta đi về Thượng Kinh, chung hưởng phú quí.
Tiêu Phong đáp:
- Đa tạ hảo ý của ca ca, có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, xem ra không hợp đời sống giàu sang. Tiểu đệ sống với người Nữ Chân, săn bắn uống rượu thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Ngày sau nếu nhớ ca ca, thể nào cũng có lúc qua nước Liêu đi kiếm.
Ông xa cách A Tử cũng đã lâu, khắc khoải không hiểu thương thế nàng thế nào bèn nói:
- Ca ca nên sớm quay về để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.
Sau đó hai người hành lễ cáo biệt. Tiêu Phong quay ngược đầu ngựa đã thấy A Cốt Đả cùng hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy Tiêu Phong đi lâu không về, e ngại không biết có trúng phải ngụy kế của người áo đỏ hay chăng, trong bụng không an nên đến tiếp ứng. Tiêu Phong kể lại đã thả y trở về nước Liêu, A Cốt Đả là kẻ rất hiểu biết, rất anh hùng thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng như thế lại càng thán phục.
Một ngày kia, Tiêu Phong nhàn rỗi nói chuyện chơi với A Cốt Đả, cho y hay sở dĩ A Tử thụ thương vì lỡ trúng phải chưởng lực của mình, tuy dùng nhân sâm có thể duy trì tính mạng nhưng đã lâu không thuyên giảm, hết sức buồn phiền. A Cốt Đả nói:
- Tiêu đại ca, thì ra cô em của đại ca bị ngoại thương, người Nữ Chân chúng tôi trị ngoại thương sai khớp xưa nay vẫn dùng ba vị thuốc gân hổ, xương hổ và mật gấu rất là hiệu nghiệm. Sao đại ca không thử xem thế nào?
Tiêu Phong mừng quá nói:
- Cái gì chứ gân hổ, xương hổ ở đây thiếu gì? Còn như mật gấu ư, ta sẽ cố gắng giết ít con là xong.
Ông hỏi kỹ cách dùng, lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao đút cho A Tử. Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang, đầm lớn kiếm gấu. Ông đi một mình, có thể thi triển khinh công, so với cùng đi cả đoàn tiện hơn nhiều. Hôm đầu không thấy dấu vết gấu, hôm thứ hai săn được một con. Ông mổ lấy mật, chạy về nơi đóng doanh, đút cho A Tử uống. Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm kiếm nơi rừng sâu núi thẳm đều là những dược phẩm cực kỳ trân quí dùng để trị thương, mật gấu tươi lại càng khó kiếm bội phần. Tiết Thần Y tuy nói là y đạo như thần nhưng không có thuốc thỉ cũng đành chịu, nếu phải dùng lão sơn sâm cho bệnh nhân dùng thay cơm thì ông cũng không thể nào làm nổi, còn như Tiêu Phong, cứ vài ngày đi đánh chết một con gấu lấy mật tươi cho A Tử uống thì càng khó hơn.(26.5)
Hôm đó, Tiêu Phong đang ngồi trong trướng nấu xương hổ, gân hổ làm cao, một gã Nữ Chân hấp tấp chạy đến nói:
- Tiêu đại ca, có khoảng chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại ca.
Tiêu Phong gật đầu, biết là do nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người đem tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa chậm rãi tiến vào, trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật. Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ xa đã vội vàng nhảy xuống ngựa, rảo bước tới trước mặt, lạy phục nói:
- Chủ nhân từ khi từ biệt Tiêu đại gia đến nay, nhớ nhung lắm lắm, đặc biệt sai tiểu nhân Thất Lý đem chút bạc lễ, lại mời Tiêu đại gia đến Thượng Kinh hàn huyên.
Nói xong khấu đầu mấy lượt, hai tay trình lễ đơn,(26.6) thần thái cực kỳ cung kính. Tiêu Phong đưa tay cầm danh sách cười nói:
- Quả là có lòng, xin hãy đứng dậy đã.
Ông mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan liền nói:
- Ta không biết chữ, chẳng cần xem làm gì.
Thất Lý nói:
- Chút bạc lễ này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng bạch ngân, một nghìn súc cẩm đoạn, một nghìn thạch lúa mạch hạng ngon, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài ra còn một số quần áo đồ dùng.
Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật như thế gấp mười tiền chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Ông thấy hơn chục con ngựa chở đến đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải bao nhiêu ngựa xe mới đủ.
Thất Lý khom lưng nói:
- Chủ nhân sợ các sinh vật đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò ngựa đều sai mang thêm một phần trừ hao nhưng may nhờ hồng phúc chủ nhân và Tiêu đại gia, bọn chúng tôi đi đường không bị gió bão dã thú, sinh khẩu(26.7) tổn thất rất ít.
Tiêu Phong thở dài:
- Gia Luật ca ca tính toán thật chu đáo, nếu ta không nhận thì phụ tấm lòng tốt của anh ta, còn nếu nhận tất cả, thì e quá đáng, không biết sao cho phải.
Thất Lý nói:
- Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu như Tiêu đại gia khách sáo không nhận, tiểu nhân trở về thể nào cũng bị phạt nặng.
Bỗng nghe tiếng tù và u u thổi, người Nữ Chân các doanh trướng đều cầm đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng truyền lệnh:
- Quân địch đến tấn công, dự bị nghênh chiến.
Tiêu Phong nhìn về phía tiếng tù và thổi thấy bụi bay mù mịt, tưởng chừng vô số quân mã đang tràn đến. Thất Lý lớn tiếng kêu:
- Các vị đừng hoảng hốt, đây là bò cừu ngựa của Tiêu đại gia đó.
Y dùng tiếng Nữ Chân liên tiếp gọi mấy lần nhưng những người kia chẳng ai chịu tin, Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy tộc nhân dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.
Tiêu Phong lần đầu tiên thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ thầm: "Bộ tộc Nữ Chân không đông nhưng người nào cũng nhanh nhẹn dữ dằn, các kỵ sĩ Khất Đan dưới quyền Gia Luật ca ca xem chừng không ghê gớm lắm, chưa bằng được khí thế người Nữ Chân, còn như quan binh nhà Đại Tống thì còn kém hơn nữa." Thất Lý kêu lên:
- Để tiểu nhân đi bảo bộ thuộc tạm ngừng không tiến lên nữa để khỏi hiểu lầm.
Y chuyển thân lên ngựa, phóng về hướng tây. A Cốt Đả giơ tay một cái, bốn tên thợ săn Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm người rong ngựa chầm chậm tiến tới thấy trên đồng cỏ bụi mù toàn là bò cừu ngựa, hơn trăm mục nhân Khất Đan dùng sào dài xua đuổi, ngoài ra không có quân sĩ.
Bốn người Nữ Chân cười rộ lên quay về, bẩm lại cho Hòa Lý Bố. Chẳng bao lâu, đội gia súc đến gần hơn, tiếng bò kêu ngựa hí rầm rĩ, át cả tiếng người không nghe thấy gì cả.
Tối hôm đó Tiêu Phong bảo người Nữ Chân giết cừu xẻ bò để đãi khách phương xa. Hôm sau, ông lấy một phần vàng bạc gấm vóc, thưởng cho bọn người đưa lễ vật đến. Đợi khi người Khất Đan cáo từ rồi, ông đem hết tất cả bò cừu ngựa, vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả bảo y chia cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân tụ tập sống chung với nhau, không có của riêng, một người được thì toàn thể bộ tộc hưởng chung, thấy Tiêu Phong khẳng khái như thế không cho là lạ lùng nhưng tự nhiên ở trên trời rơi xuống nhiều tài vật như thế, ai nấy đều vui vẻ. Toàn bộ tộc ăn uống vui chơi mấy ngày liền, người người đều cảm kích lòng tốt của Tiêu Phong.
Qua mùa hạ rồi sang mùa thu, bệnh của A Tử cũng đỡ được vài phần, thần trí vừa tỉnh táo thấy ngày ngày phải nằm trong trướng dưỡng thương thật chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa nàng ra ngoài cưỡi ngựa rong chơi cho thư thái tâm hồn. Hai người cưỡi chung một con, nàng ngồi đằng trước dựa vào ngực Tiêu Phong nên không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu Phong chiều chuộng cô gái hết mực, trong mấy tháng liền, trừ những ngày gió lớn, bão to hai người ngày nào cũng cùng nhau nhàn du. Về sau những nơi gần đi mãi cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng trại ngủ ở bên ngoài, mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân dịp đó đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc châm, gấu đen, mãnh hổ cả một dãy Trường Bạch bị chết khá nhiều, không biết bao nhiêu con táng mạng dưới chưởng của Tiêu Phong.
Tiêu Phong vì muốn đi đào sâm nên mỗi lần đều theo hướng đông hoặc hướng bắc. Hôm đó A Tử bảo rằng phía đông phía bắc phong cảnh coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây chơi. Tiêu Phong nói:
- Phía tây chỉ là một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông ngòi gì mà coi.
A Tử đáp:
- Đại thảo nguyên cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả, tiểu muội chưa từng được thấy biển cả thực bao giờ. Tinh Tú Hải tuy nói là biển nhưng vẫn còn bến còn bờ.
Tiêu Phong nghe nàng đề cập đến "biển Tinh Tú" cũng thấy chột dạ. Trong một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ lâm đã dần dần quên lãng, A Tử không hành động được, muốn làm chuyện xấu xa cũng chẳng có cách gì. Còn ông chỉ cố hết sức giúp nàng trị thương cứu mạng, nhưng lại sợ rằng một khi thuyên giảm, ác tính cả nàng lại phát tác, lúc đó biết làm sao?
Ông quay đầu nhìn A Tử, thấy khuôn mặt tái mét không một chút máu, má hóp lại, đôi mắt to đen lõm vào, dung sắc cực kỳ tiều tụy, người gầy tong teo chỉ còn da bọc xương. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong lòng: "Nàng vốn dĩ là một cô bé con khả ái hoạt bát biết là dường nào, bị ta đánh đến chết đi sống lại, có khác gì một bộ xương khô, sao ta lại chỉ nghĩ đến những điều xấu của nàng?" Ông bèn mỉm cười:
- Nếu cô thích đi qua hướng tây thì mình đi qua đó xem sao. A Tử, khi nào bệnh em đỡ nhiều rồi, ta sẽ đưa em đến biên giới nước Cao Ly để xem biển cả thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bến bờ, cảnh đó coi mới thật là hùng vĩ.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Thực ra chẳng cần phải đợi cho bệnh của em khỏi hẳn lúc ấy mình mới đi.
Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa mừng vừa sợ hỏi:
- A Tử, hai tay của em cử động được như thường rồi.
A Tử cười đáp:
- Nửa tháng trước hai tay tiểu muội đã cử động được, hôm nay lại càng linh hoạt hơn nhiều.
Tiêu Phong mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm! Ngươi quả là một con bé cứng đầu, vậy mà sao lại dấu ta?
Đôi mắt A Tử lóe lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp:
- Em chỉ mong được vĩnh viễn không cử động, có thế tỉ phu mới ngày ngày ở bên cạnh em. Chú nếu như thương thế em khỏi rồi, tỉ phu sẽ lại đuổi em đi.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật chân thành, trong bụng không khỏi thương hại nói:
- Ta là một hán tử lỗ mãng, hôm đó không cẩn thận, lỡ tay đánh cô ra nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta có gì vui đâu?
A Tử không trả lời, một lát sau mới khẽ hỏi:
- Sao hôm đó tỉ phu xuất chưởng đánh em mạnh như thế?
Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp:
- Chuyện đó vốn đã qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử, ta đánh cô đến bị thương như thế này, trong lòng cảm thấy thật áy náy, em có giận ta không?
A Tử đáp:
- Lẽ dĩ nhiên tiểu muội không giận, có việc gì em phải giận tỉ phu đâu? Em vốn chỉ mong được anh ở kề cận bên mình, bây giờ chẳng phải được như thế hay sao? Trong lòng em hết sức sung sướng là khác.
Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy thấy ý nghĩ của tiểu cô nương này thật là quái lạ, nhưng gần đây thấy nàng trở nên tử tế hơn trước, nghĩ bụng mình hết sức lo lắng cho cô ta đã làm cái tính độc ác của nàng giảm đi thật nhiều. Ông quay về dự bị ngựa xe, màn trướng, lương khô mọi thứ.
Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được trên chục dặm, A Tử bỗng hỏi:
- Tỉ phu có đoán ra được chưa?
Tiêu Phong hỏi lại:
- Đoán ra cái gì?
A Tử nói:
- Hôm đó em đột nhiên dùng độc châm đả thương anh, tỉ phu có biết vì cớ gì không?
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Tâm tư cô thần xuất quỉ một, làm sao ta đoán nổi?
A Tử thở dài một tiếng nói:
- Nếu anh không đoán ra, thì chi bằng đừng nghĩ tới nữa. Tỉ phu xem thử sao những con vịt trời kia, sao lại làm thành một đoàn bay về hướng nam là sao?
Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy bên trời hai đoàn đại nhạn, bay thành hình chữ nhân, quả thực đang bay về hướng nam bèn nói:
- Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam tránh tuyết.
A Tử hỏi:
- Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về? Mỗi năm bay đi bay lại chẳng khổ sở khó nhọc lắm ru? Bọn chúng nếu sợ lạnh sao không ở luôn phương nam, cần gì phải quay lại.
Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ từng suy nghĩ về tập tính của cầm thú côn trùng, bị nàng hỏi như thế, không sao trả lời được, lắc đầu cười nói:
- Ta cũng chẳng hiểu sao chúng lại không ngại gian khổ, chắc có lẽ là chim nhạn sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.
A Tử gật đầu nói:
- Chắc là thế. Anh xem con nhạn sau cùng kia, tuy còn nhỏ vậy mà cũng ráng bay về phương nam. Mai này cha nó, mẹ nó, chị nó, anh rể nó cùng bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng đi theo.
Tiêu Phong nghe nàng nói "chị nó, anh rể nó", trong lòng chợt động đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô bé đang ngẩng đầu mơ màng nhìn về phía đàn chim nơi chân trời, hiển nhiên câu đó nói ra không có ý gì, nghĩ thầm: "Nàng buột miệng nói ra, vậy mà đem ta cùng với cha mẹ bỏ chung một giỏ, đủ biết trong lòng nàng coi mình là một người rất thân, từ nay không thể nào tùy tiện bỏ rơi nàng. Để đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta sẽ đưa nàng trở về Đại Lý, giao lại cho cha mẹ, lúc đó gánh nặng trên vai mới trút đi được."
Trên đường, hai người vừa đi vừa nói chuyện. Đến khi A Tử mệt mỏi, Tiêu Phong liền bồng nàng từ trên lưng ngựa xuống, bỏ vào thùng xe ở đằng sau cho nàng ngủ. Khi dêm xuống, hai người tìm rừng cây dựng lều. Cứ như thế mấy ngày liền, đã đến bên bờ đồng cỏ. A Tử đưa mắt nhìn quanh thấy đại thảo nguyên không bờ không bến, trong lòng hết sức cao hứng nói:
- Mình nhìn qua hướng tây chẳng thấy đâu là tận cùng, còn như biển cả mênh mông thì nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ không bến.
Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa đồng cỏ, không muốn trái ý nàng, giơ roi lên quất một cái giục ngựa đi tiếp về hướng tây.
Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả đến lúc nhìn chung quanh bốn phía, không còn thấy biên giới dồng cỏ là đâu. Khi đó vào mùa thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng rì rào, xào xạc thật là dễ chịu. Trong đồng cỏ những thú nhỏ rất nhiều, Tiêu Phong săn bắt con nào ăn con đó, không lo không sầu.
Lại đi thêm mấy ngày nữa, hôm ấy đến trưa, nhìn đằng xa thấy có vô số doanh trướng, lại thêm cờ xí mao tiết, dường như chỗ đóng quân, lại trông như nơi bộ lạc sống chung với nhau. Tiêu Phong nói:
- Trước mặt đông người lắm, không biết họ đang làm gì, mình đi về dể khỏi gây thêm rắc rối.
A Tử nói:
- Không! Không! Em muốn đến xem. Hai chân em còn chưa cử động được, đâu có thể gây rắc rối gì cho anh?
Tiêu Phong cười nói:
- Chuyện rắc rối đâu có phải chỉ do ngươi mà ra, có khi người khác gây cho mình, ngươi có muốn tránh cũng không được.
A Tử cười nói:
- Thế thì mình đến xem cũng chẳng sao cả.
Tiêu Phong biết cái tính trẻ con thích chỗ náo nhiệt của nàng nổi lên, nên giục ngựa đi chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế phẳng lì, những doanh trướng đó từ đằng xa đã nhìn thấy nhưng đi cho tới nơi, lộ trình cũng không phải ngắn. Đi đến bảy tám dặm rồi, bỗng nghe tiếng kèn hiệu thổi u u, tiếp theo bụi bay mù mịt, hai hàng nhân mã mở ra, một đội đi về hướng bắc, một đội phóng về phía nam.
Tiêu Phong hơi kinh hãi nói:
- Không xong, đây là kỵ binh người Khất Đan.
A Tử nói:
- Là người của anh đấy ư? Thế thì hay quá chứ có gì bảo là không hay?
Tiêu Phong đáp:
- Nhưng ta không biết họ là ai, thôi mình quay về.
Ông ghìm cương ngựa quay đầu, theo đường cũ để trở về. Chưa được mấy bước, bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, lại có mấy đội kỵ binh Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Bốn bề không thấy có địch nhân đâu cả, không lẽ họ thao luyện tập trận chăng?"
Chỉ nghe tiếng người vang lên:
- Bắn hươu đi! Bắn hươu đi!
Phía tây, phía bắc, phía nam chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn hươu. Tiêu Phong nói:
- Thì ra họ vây để săn thú, thanh thế như vậy quả không phải nhỏ.
Ông bèn bồng A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông nhìn ra. Chỉ thấy kỵ binh Khất Đan người nào cũng mặc cẩm bào, bên trong có áo giáp sắt. Cẩm bào màu sắc đội thì đỏ, đội thì xanh, đội thì vàng, đội thì tím, cờ quạt với áo cùng màu, tới lui nhanh chậm, mã tráng binh cường trông thật đẹp mắt, Tiêu Phong và A Tử đứng coi mà khen ngợi thầm. Quân sĩ nghe theo quân lệnh dọc ngang tiến thoái, giơ trường mâu ra xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử, cũng chỉ liếc một cái rồi không để ý gì tới nữa. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn bên, dồn mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con theo khe hở chạy được ra ngoài thì lập tức có một toán quân nhỏ đi ra cản, vây thành vòng tròn đuổi trở lại vào trong.